Thuyết
tiến hóa của Darwin cho rằng con người từ khỉ biến thành. Ai tin kệ bà họ đi!
Tui chỉ thắc mắc một điều là tại sao tới giờ này vẫn còn biết bao nhiêu loài
khỉ trên trái đất này, vẫn là khỉ, mà không chịu tiến hoá thành người? Câu hỏi
thứ hai: Tại sao có những tộc khỉ đã biến thành người rồi, mà óc của họ vẫn còn
y như óc khỉ? Nhức đầu ghê!
Bên
kia bờ Thái Bình Dương, cách nước Mỹ 8,568 miles (13,814 km) đường chim bay,
vẫn còn một bầy khỉ chưa tiến hoá thành người. Chúng cũng bắt chước (bắt chước
là đặc tính của loài khỉ) mang giày mỏ vịt, khoác áo vest, đeo cà vạt như người
Mỹ (và người Tây), nhưng bên trong lớp vải màu mè kia vẫn còn y nguyên lông lá,
và trong cái quần tây được nai nịt kia vẫn còn nguyên vẹn cái đuôi khỉ quấn
tròn, cố giấu! Và quan trọng nhứt, óc của chúng vẫn 99.99% là óc khỉ!
Năm
nào cũng vậy, cứ tháng Tư đen về là tui nghĩ đến loài khỉ chưa kịp tiến hoá
thành người. Tui gọi chúng là NGƯỜI KHỈ. Nói văn hoa một chút, là những con dã
nhân! Dã là hoang dã, hay dã man. Nhân là người.
Năm
nào cũng vậy, cứ Tháng Tư đen về, người ta lại có dịp đọc lại những bài viết về
cuộc đầu hàng của Tướng Lee, Tư Lệnh quân miền Nam, với tướng Grant, Tư Lệnh
miền Bắc. Cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc nước Mỹ, đã
lấy đi sinh mạng của hàng triệu quân và dân Mỹ. Đó là cuộc chiến khốc liệt, đẫm
máu nhất lịch sử Mỹ. Điều đáng nói nhất ở đây là, khi cuộc nội chiến Mỹ chấm
dứt, không có chuyện "triệu người vui và triệu người buồn" như
ở cái xứ sở hồng hoang, bên kia bờ đại dương nọ, nơi vẫn còn một loài khỉ chưa
tiến hoá kịp thành người. Ngược lại, toàn quân và toàn dân Mỹ, tất cả đều mừng
rơi lệ, hân hoan cho một kết cuộc đẹp như chuyện thần tiên, bởi vì "bên
thắng cuộc" không kiêu, và kẻ bại trận không hề thấy nhục. Hoàn toàn không
có hận thù truyền kiếp. Nước Mỹ đã "hoà hợp, hoà giải" ngay ngày
tướng Lee đầu hàng, không cần thời gian, không cần bất cứ một lời kêu gọi
"hoà giải" từ bên nào cả. Nói nó đẹp như chuyện thần tiên thiệt là
không cường điệu một chút xíu nào cả!
Năm
nào cũng vậy, cứ tháng Tư đen về, người ta lại được đọc những bài viết về tướng
Douglas MacArthur, vị Tướng Mỹ "tiếp quản" nước Nhật khi họ đầu hàng
đồng minh sau hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Tại
sao vậy? Bởi vì cách hành xử của kẻ chiến thắng rất cao thượng, đầy nhân đạo,
chan chứa tình người đối với kẻ bại trận. Kẻ bại trận đã đầu hàng vô điều kiện,
hà cớ gì quân Mỹ phải dùng xe tăng húc đổ cổng tường hoàng cung của Nhật Hoàng?
Nhật Hoàng, một trong những kẻ chủ chiến của thế chiến thứ II, gây ra biết bao
tang tóc, đau thương cho toàn thế giới, đáng lẽ phải bị xử voi giày, ngựa xé
(ngũ mã phanh thây), hay tùng xẻo (lóc từng miếng thịt) cũng chưa vừa tội, vậy
mà được tha. Thay vì đem xe, đem tàu, đem máy bay hốt của chở đi, nước Mỹ còn
cấp tốc viện trợ nhân đạo để cứu dân Nhật. Sao bọn tư bản giãy chết có thể nhân
từ, độ lượng, bao dung với kẻ thù như vậy được? Khác xa bọn thổ phỉ khi chiến
thắng thì giết chồng, giựt vợ, hốt của cải, lưu đày đối phương đến thân tàn ma
dại, sống không bằng chết! Cùng nòi cùng giống mà chúng còn ác như vậy. Nếu
giao cho chúng "tiếp quản" nước Nhật, thì nước Nhật sẽ ra sao?
"Thành không nhà trống", 7000 đảo lớn nhỏ của Nhật trở nên hoang vu,
máu chảy ngập sông, tràn núi, bởi vì cả chó mèo chúng cũng không tha, y như
quân xâm lược Mông Cổ, thời Thành Cát Tư Hãn!
"Chuyện
tào lao" của Mười Lúa từ bài 1 đến bài thứ 68, về mọi đề tài, lúc nào cũng
tưng tửng, nửa đùa nửa thiệt, viết thiệt như chơi, viết chơi mà thiệt, và nhất
là không có "đằng đằng sát khí" hay chửi banh nhà lồng chợ như Trang
Lê, Lisa Phạm,.... Bài nầy tui tự nhủ lòng: ráng đừng phá lệ. Tuy nhiên, nếu
thấy Mười Lúa tui cay cú, nổi nóng muốn chửi thề, hay uất hận đến tận bản họng
mà phát lời nguyền rủa, thì xin hiểu cho, vì năm nào cũng vậy, cứ tháng Tư đen
là Mười Lúa rất dễ nổi cơn! Chỉ cần nghe ai nói, hay ai viết hai chữ "giải
phóng", cũng đủ cho mười Lúa lên tăng xông liền!
Rồi,
ai thích chuyện tào lao thì xin mời bưng ly cà phê "cái nồi ngồi trên cái
cốc" ra đi. Vừa nhâm nhi vừa đọc chơi. Mệt cứ nghỉ. Tui viết đến mệt hay
đến lúc phát quạu, cũng sẽ tắt máy nghỉ.
1.
Tướng Lee đầu hàng tướng Grant.
Thân
phụ của Robert E. Lee là một danh tướng. Robert E. Lee nối gót cha, chọn binh
nghiệp, và ông đã tốt nghiệp từ trường Đại Học quân sự danh giá nhất nước Mỹ,
West Point, với thành tích Á Khoa. Trong cuộc nội chiến Nam-Bắc từ 1861 đến
1865, ông là Tư lệnh của quân miền Nam (Confederacy), với nhiều chiến công oanh
liệt, từng làm cho quân đội của miền Bắc nhiều phen thất điên bát đảo! Thắng
hay bại có khi cũng không do tài năng, mà còn tùy vào nhiều yếu tố khác nữa. Có
lẽ ông và dân miền Nam cũng không ngờ có ngày phải thua trận, lâm vào đường
cùng. Dân gian mình nói "người tính không bằng trời tính", hay
"mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên".
Vào
ngày 9 tháng Tư, 1865 (cũng là tháng Tư), quân đội liên quân Miền Nam đầu hàng
Tướng Ulysses S. Grant, Tư Lệnh Liên Quân miền Bắc (The Union, hay quân đội
Liên Bang). Tướng Grant của Liên bang đã đưa ra những điều kiện rộng lượng nhất
trong lịch sử chiến tranh. Những điều kiện đầy bao dung, chan chứa tình người,
tình anh em một nhà, đã góp phần tái thống nhất một quốc gia đã bị cuộc nội
chiến tang thương chia cắt thành hai. Miền Nam có Tổng Thống Jefferson Davis,
có Quốc Hội, có Hiến Pháp của họ, trong đó họ cho phép sự tồn tại của chế độ nô
lệ. Chánh quyền Liên Bang (miền Bắc), có TT Abraham Lincoln, và dĩ nhiên có QH,
có Hiến pháp từ thời lập quốc.
Tướng
Grant bốn mươi hai tuổi, điềm tĩnh, lạnh lùng, nhưng rất nhân hậu, con của
người thợ thuộc da, cuối cùng cũng đã đánh bại quân Miền Nam.
Đối
thủ của ông, Tướng Lee, râu tóc bạc phơ, năm mươi bảy tuổi, là Tư Lệnh quân đội
lỗi lạc nhất trong cuộc chiến, một con người về mọi phương diện đều xứng đáng
với truyền thống kiêu hùng của tổ tiên. Miền Nam tôn thờ nhà lãnh đạo quý tộc
này. Miền Bắc cũng sợ và kính trọng ông ta.
Quân
của Lee tứ bề thọ địch, không đường thoát, và cạn lương thực. Ông không còn
chọn lựa nào khác hơn. Ông gởi thư cho Grant, và sai thư ký quân đội, Đại tá
Charles Marshall, chọn một nơi thích hợp cho cuộc hội nghị liên quan đến những
điều kiện để đầu hàng.
Lee
và Marshall đến điểm hẹn trước Grant. Grant đi vào một cách vội vã với bộ đồ
trận còn lấm lem bùn chưa kịp thay, vì ông không muốn để Lee phải chờ lâu. Ông
đối xử với Lee như một quí khách chớ không phải kiểu "kèo trên" của
"bên thắng cuộc".
Hai
người đã gặp nhau lần cuối cách đó mười bảy năm khi cả hai còn là sĩ quan trong
cuộc chiến tranh với Mexico. Cuộc trò chuyện hôm nay cứ miên man về những kỷ
niệm thời ấy. Grant mải mê chuyện trò đến nỗi Lee phải nhắc Grant rằng họ gặp
nhau để bàn về việc Quân đội miền Nam đầu hàng.
Grant
ngay lập thức đề nghị rằng, những sĩ quan và binh lính nào hứa danh dự không
cầm vũ khí chống lại Hoa Kỳ, sẽ được phép trở về nhà. Chỉ cần cam kết vậy là
đủ! "Điều này sẽ khiến cho quân đội tôi rất vui," Lee nói, vì ông
thấy lính của ông sẽ không bị áp giải đến nhà tù.
Rồi
Grant hỏi Lee có đề nghị gì không. Lee hỏi Grant: "Những kỵ binh và pháo
binh của quân miền Nam, tất cả họ đều là chủ nhân của những con ngựa họ dùng
trong chiến tranh, vậy họ có được phép đưa ngựa của họ về lại nhà họ để cày cho
vụ xuân tới không?" Tổng tư lệnh quân đội Liên bang đồng ý ngay không cần
suy nghĩ. Lee lại bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc.
Trong
khi những điều kiện đầu hàng được ghi ra giấy và sự chấp nhận những điều kiện
đầu hàng được thảo ra Grant giới thiệu với Lee những vị tướng Liên bang đứng
phía sau mình. Rồi Lee nói với Grant rằng, ông có 1,000 tù binh Liên bang nhưng
ông không có lương thực cho họ, vì ngay cả lính ông cũng chẳng còn lương thực.
Tướng tư lệnh miền Bắc, nghĩ rằng tướng địch quân miền Nam vẫn còn chỉ huy đến
25,000 quân (con số này cao hơn thực tế nhiều), liền hứa cung cấp 25,000 phần
ăn cho quân miền Nam. Lee chấp nhận sự giúp đỡ này với lòng biết ơn chân thành.
Khi
Lee đi ra mái hiên, vài sĩ quan Liên bang đứng bật dậy chào. Tướng tư lệnh quân
miền Nam chào lại. Khi Lee đã lên con ngựa Traveler, một chút sau, Grant cũng
lên ngựa của ông và ông bất ngờ đứng lại và giở mũ ra để tỏ lòng kính trọng
tướng Lee. Những sĩ quan Liên bang khác cùng làm theo. Lee nhắc mũ lên đáp lại,
rồi phi ngựa quay về để báo cho binh lính của ông rằng chiến tranh đã kết thúc.
Một cuộc
hội đàm đầu hàng giữa hai Đại Tướng của hai phe, diễn ra một cách nhanh chóng,
đơn giản, khó ai tin nổi! Không kì kèo, không mặc cả, không ai khó dễ ai! Hoà
bình, hoà giải dân tộc, cùng xây dựng một đất nước, là điều quan trọng hơn hết
đối với họ. Sĩ diện không có chỗ đứng ở đây dù là thứ sĩ diện của kẻ thắng hay
của người thua. Chỉ có tình người, tình yêu quê hương.
Khi
Lee về đến lều, các sĩ quan và lính chen nhau đến gặp ông để nói lời chia tay.
Giọng run run, ông dặn dò họ nhiều lần là hãy đi về nhà, gieo trồng cho vụ mùa,
và tuân thủ luật pháp.
Lee
và Grant sau đó có cuộc hội đàm khác trên một ngọn đồi nằm ở giữa hai chiến
tuyến. Tại đây họ trò chuyện thân thiết trong hơn nửa giờ và thảo luận về việc
ân xá cho binh lính miền Nam và tương lai của miền Nam.
Trên
đường quay về tổng hành dinh Lee bất ngờ gặp Tướng George G. Meade, tư lệnh
Quân đội Potomac của miền Bắc, đang phi ngựa đến thăm ông. "Ông làm gì mà
râu tóc bạc nhiều vậy?" Lee hỏi tướng miền Bắc. "Chính ông đã làm cho
râu tóc tôi bạc nhanh đến thế," Meade cười đáp.
Họ
chẳng còn nhớ gì những ngày "sống mái" với nhau ngoài chiến trường.
Họ như những bằng hữu thân quen.
Ngày
11 tháng Tư hai bên đã thảo ra kế hoạch chi tiết cho việc ân xá và đầu hàng.
Ngày hôm sau tàn quân của quân đội miền Nam kiêu hùng, với Tướng Gordon dẫn
đầu, họ đi dọc theo đồi về hướng Tòa án Appomattox. Ngay trước khi họ đến, họ
thấy hai lữ đoàn quân Liên bang đứng thành hàng dọc theo hai bên đường dưới sự
chỉ huy của Tướng Joshua L.Chamberlain, người được trao Huân chương Danh dự của
Quốc hội vì đã chiến đấu anh dũng ở Gettysburg.
Khi
quân miền Nam đi ngang qua, những người lính Liên bang bồng súng chào và những
người lính miền Nam chào lại. Hết sư đoàn này đến sư đoàn khác bỏ vũ khí xuống
thành từng đống và cũng bỏ xuống những lá cờ trận bị đạn bắn rách tả tơi.
"Về
phần chúng tôi," Tướng Chamberlain về sau kể, "thì không một tiếng
kèn cũng chẳng một hồi trống, không một lời mừng vui, cũng chẳng một lời thầm
thì về hư vinh của chiến thắng... mà đúng hơn là sự im lặng thành kính, và nín
thở, như thể trước mắt mình là người đang chết."
Tướng
Lee vẫn ở trong trại cho đến khi nghi lễ đầu hàng xong. Trong lúc những người
lính của ông trông ngóng về hướng quê nhà thì ông bắt đầu lên đường về
Richmond. Tư lệnh Liên bang nhứt định cho một đoàn hai mươi lăm kỵ binh đi theo
tiễn đưa ông mấy dặm đường.
Grant
đã rời Appomattox trước khi những người lính miền Nam giao nộp vũ khí và cờ.
Ông không muốn chứng kiến kết cục bi thương của quân đội kiêu hùng mà ông đã
đánh bại.
Thủ
Tướng Anh, Winston Churchill, gọi đây là "cuộc chiến tranh cuối cùng giữa
những người quân tử"!
Mười
Lúa nói rằng: Đây là cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nhưng kết thúc không phải
là một thảm kịch, mà nó kết thúc đẹp như chuyện thần thoại!
2.
MacArthur, "một công thần lập quốc" của Nhật.
Tháng
8/1945, MacArthur, vị Thống Tướng 65 tuổi của Mỹ, được cử làm Tư lệnh Tối cao
Quân đội Đồng minh (Supreme Commander for the Allied Powers, SCAP). Ngày 30/8,
ông đến Tokyo. Ngày 2/9, ông ký văn kiện chấp nhận Nhật đầu hàng trên tàu chiến
Missouri của Mỹ, neo trong vịnh Tokyo. Phát biểu tại nghi lễ ấy, ông nói về
việc sẽ tạo ra một "thế giới tốt đẹp hơn" cho nước Nhật. Không hề lên
giọng kẻ cả hay hù dọa kẻ bại trận.
McArthur
đại diện cho "bên thắng cuộc", đáng lẽ với quyền bính "hô mưa
gọi gió" của một "Toàn Quyền", ông ta phải hành hạ "bên thua
cuộc" cho nhừ tử mới phải! MacArthur là chúa tể nước này trong khoảng 6
năm sau Thế chiến II, quyền lực cao hơn cả vua nước Nhật, nhưng ông hiền khô,
với tâm địa của một thánh nhân.
Sự
đóng góp của MacArthur đối với nước Nhật lớn tới mức: ông là người ngoại quốc
duy nhất, được xếp vào danh sách "Mười hai người tạo dựng nước Nhật"
(The Twelve Men Who Made Japan). Nói kiểu cải lương, thì ông là một trong mười
hai vị "công thần lập quốc", đưa nước Nhật lên hàng cường quốc. Ông
đã đem lại cho người Nhật những thứ họ chưa từng biết đến: chế độ chính trị dân
chủ, bình đẳng nam nữ, tự do ngôn luận, nền kinh tế không có các đại tập đoàn
gia tộc, v.v...
Người
Nhật gọi đức vua của họ là Thiên Hoàng, vì họ tin rằng gia tộc nhà vua là dòng
dõi của Thiên Chiếu Đại Thần, tức Thần Mặt Trời Amaterasu, là thần, không phải
người phàm, vì thế được quyền cha truyền con nối cai trị nước Nhật suốt lịch
sử, chưa hề bị thay bằng người khác gia tộc.
MacArthur
hiệu lịnh cả đương kim Thiên Hoàng Hirohito (bên thắng cuộc mà), nên người Nhật
gọi ông là Thái Thượng Hoàng, tức hoàng đế đã truyền ngôi cho con nhưng vẫn nắm
thực quyền.
MacArthur
chủ trương tạo dựng một nước Nhật dân chủ, phi quân sự, phi tập trung quyền,
hạn chế chủ quyền quốc gia vào 4 đảo chính (Honshu, Hokkaido, Shikoku, Kyushu)
và một số đảo nhỏ. Chế độ chiếm đóng kéo dài 6 năm 8 tháng kết thúc ngày
8/9/1951, khi 51 quốc gia ký với Nhật Hòa ước San Francisco. Sau khi Hòa ước có
hiệu lực (28/4/1952), Nhật trở thành quốc gia độc lập có chủ quyền, và năm 1956
gia nhập Liên Hợp Quốc. Mỹ không hề chiếm biển đảo hay một tấc đất nào của
Nhật.
Mỹ đã
huy động 350,000 quân để giải giới và chiếm đóng nước Nhật, nhằm bảo đảm sự
tuân thủ các điều kiện đầu hàng. Mỹ đã tiến hành giải thoát tù binh, sa thải
toàn bộ viên chức chính quyền quân phiệt, tước vũ khí và giải tán quân đội
Nhật, buộc toàn bộ hơn 7 triệu lính Nhật trở về gia đình. Hai Bộ Lục quân và
Hải quân Nhật bị giải tán. Tất cả đạn dược và vũ khí, thiết bị quân sự bị phá
hủy. Công nghiệp quân sự chuyển sang sản xuất hàng dân dụng.
MacArthur
đã không hành xử theo thói thường của phe thắng cuộc để xử tử hay truất phế
Thiên Hoàng Hirohito. Hirohito cũng đã hân hoan chấp nhận tất cả các chủ trương
của MacArthur về quản trị nước Nhật. Ngày 1/1/1946, Hirohito đọc bản Tuyên ngôn
Nhân gian (Ningen-sengen) trên đài truyền thanh: lần đầu tiên trong lịch sử
tuyên bố rằng Thiên Hoàng chỉ là người thường, không phải thần thánh, nghĩa là
chấp nhận từ bỏ địa vị nắm quyền tối cao của quốc gia. Như vậy MacArthur là
người lãnh đạo cao nhất nước Nhật.
MacArthur
cũng ra lệnh cấm quân đội Đồng minh tấn công người Nhật và cướp lương thực,
thực phẩm của Nhật. Ông yêu cầu Chính phủ Mỹ viện trợ khẩn cấp lương thực thực
phẩm cho Nhật để ngăn ngừa nạn đói và rối loạn chính trị. Sau chiến tranh, nước
này chỉ còn là đống tro tàn. 9 triệu người không có nhà ở, 13 triệu người thất
nghiệp. Bộ Tài chính Nhật báo cáo có 10 triệu dân bị đói. Đường phố đầy người
ăn xin, phần lớn là lính giải ngũ và người tàn tật. Khẩu phần ăn của mỗi viên
chức chỉ bằng một nửa so với tiêu chuẩn 2,200 calorie/ngày. Đã vậy, mùa màng
năm 1945 lại tệ hại nhất trong 30 năm. Giá lương thực đắt gấp 7.5 lần.
MacArthur lập tức tìm mọi cách cứu đói. Ngay từ cuối năm 1945 ông sửa lại kế
hoạch đưa quân đội Mỹ đến chiếm đóng Nhật, giảm bớt 200,000 người, lấy số lương
thực dư ra để giúp dân Nhật. Năm 1946, ông đề nghị Chính phủ Mỹ viện trợ không
hoàn lại cho Nhật 330 triệu USD. Năm 1947, thêm 297 triệu USD. Quốc hội Mỹ đáp
ứng mọi yêu cầu cứu đói dân Nhật do MacArthur nêu ra. Nhờ đó tới năm 1948, công
chức Nhật đã được hưởng khẩu phần 2,000 calorie/ngày. Năm 1949, dự trữ lương
thực từ số không lên tới 3 triệu tấn. Sản lượng gạo năm 1950 đạt 9.5 triệu tấn.
Dân Nhật không phải ăn bo bo, khoai mì, khoai lang đến trẹo bản họng dưới sự
cai trị của "quân thù", bởi vì "quân thù" chỉ cho thêm chớ
không cướp đi!
Hiến
pháp mới với quyền tự do dân chủ, và nguyên tắc tam quyền phân lập. Thiên Hoàng
bị tước bỏ địa vị nắm quyền tối cao của quốc gia, chỉ còn là "Tượng trưng
của quốc gia Nhật, của khối thống nhất quốc dân Nhật". Việc cải cách triệt
để chế độ Thiên Hoàng đã quét sạch chủ nghĩa độc tài chuyên chế phong kiến và
đánh sập trụ cột tinh thần của chủ nghĩa phát xít Nhật.
Thường
tình, dân nước bại trận rất sợ quân đội nước thắng trận sẽ có những hành động
trả thù. Khi chuẩn bị đón lính Mỹ tới chiếm đóng, chính quyền Nhật đã lập nhiều
nhà thổ, tập trung gái điếm để "phục vụ" lính Mỹ, nhằm tránh xảy ra
nạn lính Mỹ cưỡng bức phụ nữ Nhật. Nhiều cô gái Nhật cắt tóc ngắn giả làm con
trai, có nhiều cô còn mang theo thuốc độc để tự tử nếu bị cưỡng bức... Nhưng
phụ nữ Nhật đã không phải lo sợ. MacArthur chỉ thị lính Mỹ phải tôn trọng dân
bản xứ, ví dụ, phải bỏ giày khi vào nhà, giúp đỡ các trẻ em thiếu ăn, nhường
đường cho họ v.v... Vì thế người Nhật từ chỗ e sợ trở nên quý mến quân Mỹ. Chỉ
sau 6 tháng đổ bộ lên đất Nhật, lính Mỹ ra đường không cần mang vũ khí tự vệ
nữa. Và khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, MacArthur đã có thể yên tâm rút phần
lớn quân đội Mỹ chiếm đóng Nhật sang mặt trận Triều Tiên chiến đấu trong lực
lượng Liên Hiệp Quốc do ông chỉ huy chống lại Bắc Triều Tiên.
Hoàn
toàn không giống xứ sở của loài khỉ, lúc nào cũng nhìn thấy "thế lực phản
động" quanh mình! Không tạo ra kẻ thù, thì làm gì có kẻ thù?
MacArthur
không phải là kẻ mị dân, lúc nào cũng quần áo bảnh bao xuất hiện trước công
chúng, với những lời lẽ gian trá, nói ba tô gom lại không còn một chén. Ông rất
ít gặp người Nhật, chỉ tiếp xúc với một số quan chức Nhật cấp cao, nhưng tuyệt
đại đa số dân Nhật có thiện cảm với ông tới mức say mê, tôn kính ông như tôn
kính Thiên Hoàng, coi ông là cứu tinh của nước Nhật. Họ gửi tặng ông vô số quà
biếu và lời mời. Cách thể hiện tình cảm thú vị nhất là họ viết thư cho ông.
Tổng cộng MacArthur đã nhận được khoảng nửa triệu bức thư từ dân chúng Nhật.
Nhiều người cảm ơn chính sách rộng lượng của MacArthur và nước Mỹ. Có cả thư tố
cáo những tên phát xít còn ẩn náu trong dân. Nhà văn Nhật Sodei Rinjiro từng
viết cuốn sách có tên "Tướng MacArthur thân mến: Những bức thư gửi từ
người Nhật trong thời gian Mỹ chiếm đóng" (xuất bản 2001). Sodei đã đọc
hơn 10 nghìn thư, và trích đăng vào cuốn sách của mình 120 bức thư thú vị và
quan trọng.
Người
Nhật yêu thương và tôn kính MacArthur vì ông đã giải thoát họ khỏi chiến tranh,
đói nghèo, khỏi ách áp bức của chế độ chính trị chuyên chế Nhật, cũng như khỏi
tâm trạng chán chường thất vọng. Dưới sự cai trị của MacArthur, đội quân chiếm
đóng Nhật trở thành đội quân "giải phóng" nhân dân Nhật. Trước và
trong chiến tranh, người Nhật sống dưới ách cùm kẹp của bọn quân phiệt. Hệ
thống cảnh sát quân sự Kampeitai theo dõi thái độ chính trị của từng người.
Chúng không cho dân được nói ý kiến của mình. Chúng bỏ tù hoặc giết bất cứ ai
dám có ý kiến khác với chính quyền hoặc không ủng hộ các nỗ lực chiến tranh. Vì
thế khi SCAP ban hành các sắc lệnh thủ tiêu mọi sự hạn chế quyền lợi của dân
chúng, người Nhật vô cùng cảm động, phấn khởi và biết ơn người Mỹ. Ngay từ
tháng 10/1945, chỉ hai tháng sau ngày "tiếp quản", MacArthur đã tuyên
bố toàn dân Nhật có quyền tự do phát ngôn và hội họp. Ông ra lệnh cho Thủ tướng
Nhật mở rộng quyền của các công đoàn, trao cho phụ nữ quyền tự do ngôn luận và
bầu cử.
Nhiều
sử gia cho rằng việc đưa nước Nhật đi từ chế độ quân phiệt phong kiến lên chế
độ dân chủ hiện đại là công trạng lớn nhất của MacArthur, lớn hơn bất cứ chiến
công nào ông từng lập được trên các chiến trường Thế chiến I, II và chiến tranh
Triều Tiên.
Hết
lòng giúp đỡ nhân dân nước thù địch bại trận, là một nghĩa cử cao cả, là một chính
sách sáng suốt, đã đem lại cho nước Mỹ thiện cảm của nhiều người. Phát xít Nhật
là kẻ thù tàn bạo nhất, gây ra nhiều thiệt hại nhất cho nước Mỹ trong Thế chiến
II. Nhật không tuyên chiến với Mỹ, mà hèn hạ đánh lén Trân Châu Cảng (Pearl
Harbor), làm hơn 3,000 người Mỹ thương vong, gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương tàn khốc. Lính Nhật đã tra tấn, hành hạ đến chết nhiều tù binh Đồng minh.
Tội ác của chúng khiến dân Mỹ kinh tởm.... Vì thế tướng MacArthur đã phải chịu
áp lực lớn từ trong nước khi ông yêu cầu nước mình viện trợ lương thực cứu
đói nước Nhật. Nhờ MacArthur có uy tín rất cao trong dân Mỹ, nên các yêu cầu
của ông đều được chấp nhận. Sự viện trợ to lớn, hào hiệp của nước Mỹ đã giúp
người Nhật thoát khỏi tình cảnh vô cùng khó khăn, nhanh chóng phục hồi nền kinh
tế bị tàn phá nặng nề. Ngay từ ngày mới đến Nhật, MacArthur từng chân thành thổ
lộ ý muốn biến nước Nhật thành một Thụy Sĩ phương Đông. Chiến tranh Triều Tiên
(1950-1953) là thời cơ có một không hai giúp kinh tế Nhật cất cánh. Sản xuất
công nghiệp tăng vọt do nhận được những đơn đặt hàng khổng lồ của quân đội Mỹ.
Rốt cuộc nước Nhật thù địch trở thành siêu cường kinh tế thứ hai thế giới và
đồng minh trung thành của Mỹ.
MacArthur
một mình cai trị toàn diện nước Nhật bại trận trong gần 6 năm, bỏ ngoài tai mọi
ý kiến bất đồng của các nghị sĩ và quan chức Mỹ. Người ta gọi ông là "nhà
độc tài thần thánh" (Godlike dictator). Nhưng nhà độc tài ấy được đông đảo
dân Nhật thực sự tôn kính với lòng biết ơn sâu sắc. Có phụ nữ Nhật viết thư xin
được sinh con với ông. Ngày ông trở về Mỹ, hàng trăm nghìn người Nhật kéo nhau
ra đường đưa tiễn, hô vang "Đại nguyên soái", nhiều người nước mắt
ròng ròng. Khóc thiệt, chớ không phải khóc kiểu "thương tiếc lãnh tụ vô
vàn kính yêu" của tộc khỉ!
Hồi
ký của Kiichi Miyazawa (Thủ tướng Nhật nhiệm kỳ 1991-1993) viết:
Ngày
11/4/1951, báo đài đưa tin MacArthur bị miễn chức. Tin này làm người Nhật vô
cùng sửng sốt, họ không thể nghĩ tới chuyện Thống tướng MacArthur lại có thể bị
bãi miễn dễ dàng bởi một mệnh lệnh của Tổng thống.
Ngày
16/4, MacArthur rời Tokyo về Mỹ. Hôm ấy dân chúng Nhật đứng chật kín suốt hai
bên đường từ trụ sở SCAP tới sân bay Haneda. Thủ tướng Nhật cùng toàn thể thành
viên Chính phủ ra sân bay tiễn đưa. Tôi đứng sau Bộ trưởng Tài chính, đối diện
với chiếc chuyên cơ. MacArthur cùng vợ và con trai lần lượt bắt tay từng quan
chức. Khi MacArthur bước lên thang máy bay, một quan chức Nhật bỗng hô to
"MacArthur muôn năm !" Thế là tất cả mọi người đều giơ tay hô theo
"Muôn năm"....
Douglas
MacArthur qua đời ngày 5/4/1964 tại Washington, D.C, thọ 84 tuổi. Ông đã ra
người thiên cổ, nhưng tên ông vẫn mãi mãi trong trái tim người dân Nhật, và
tiếng tăm của ông vang lừng khắp thế giới. Ngược lại, ở một xứ nào đó,
bên kia bờ Thái Bình Dương, khi có một "lãnh đạo" chuyển từ sống sang
từ trần, thì bàng dân thiên hạ đua nhau mua bia, ăn mừng với không biết bao
nhiêu lời phỉ nhổ, xách mé! Một bậc vĩ nhân từ biệt cõi đời, khác một trời một
vực với một con khỉ "đi bán muối" là vậy đó!
Kết
luận:
* Cái
kết của cuộc chiến huynh đệ tương tàn ở Mỹ, tính đến năm 2022, đúng 157 năm.
Thời đó còn nô lệ, còn chút dã man, mà họ đã hành xử đẹp đến như vậy, quả là
một kỳ tích đáng muôn đời ghi vào sử xanh. Cuộc chiến huynh đệ tương tàn ở xứ
Vệ, kết thúc cách đây chỉ 47 năm, nhưng người ta tưởng nó kết thúc cách đây cả
hàng ngàn năm, cái thời kỳ người còn ăn thịt người, người còn uống máu người!
* Nếu
tướng Grant, đại diện cho "bên thắng cuộc" không hành xử một cách cao
thượng với bên thua cuộc, thì câu hỏi đặt ra là liệu nước Mỹ có "hoà hợp
hoà giải dân tộc", có thể thật sự thống nhất vĩnh viễn để trở thành một
cường quốc như hôm nay hay không? Hỏi là trả lời.
* Nếu
Tướng Grant "cắc bùm" hết phe bại trận, tịch thu tài sản, bắt họ làm
nô dịch, xếp họ vào loại công dân hạng thứ n, thì thử hỏi mầm mống chiến tranh
có bùng phát lần nữa hay không? Hỏi là trả lời! Còn vô số câu hỏi và những câu
trả lời tương tự. Người đọc cứ hỏi và tự trả lời cho Mười Lúa khỏi tốn công
viết!
* TT
Abraham Lincoln và quân đội miền Bắc mới thật sự là "quân giải phóng".
Họ giải phóng người da đen khỏi chế độ nô lệ. Mấy triệu người Mỹ ngã xuống để
hoàn tất công cuộc "giải phóng" này. Người da đen nói chung, và người
da màu trên đất Mỹ có được cuộc sống tự do, bình đẳng như ngày hôm nay, là nhờ
xương máu của họ đã nhuộm thấm mảnh đất này.
*
Người Nhật yêu thương và tôn kính MacArthur vì ông đã giải thoát họ khỏi chiến
tranh, đói nghèo, khỏi ách áp bức của chế độ chính trị chuyên chế Nhật. Dưới sự
chỉ huy của MacArthur, đội quân chiếm đóng Nhật trở thành "đội quân giải
phóng" nhân dân Nhật thật sự. Ý nghĩa của hai chữ "giải phóng"
là đây! Hành động đem bom đạn, mang quân đi đánh chiếm một quốc gia Tự Do, Độc
Lập, có Chủ Quyền, người dân đang sống ấm no, hạnh phúc, rồi áp đặt gông cùm
lên đầu dân, là hành động xâm lược! Chỉ có bọn khỉ chưa tiến hoá thành người
mới gọi hành động man rợ đó là "giải phóng"! Bốn mươi bảy năm sau,
bọn khỉ vẫn nhầm lẫn (hay trâng tráo) về ý nghĩa của hai chữ "giải
phóng". Coi bọn chúng đang ủng hộ tên quỷ chúa Putin đem quân "giải
phóng" dân lành vô tội đang sống yên bình của xứ Ukraine thì biết! Làm sao
Mười lúa không nổi máu sung thiên khi nghe chúng dùng hai chữ "giải
phóng" cho được! Đúng là một lũ khỉ không chịu tiến hoá! Chúng mang hình
người nhưng tâm vẫn mọi rợ!
* Hãy
dẹp đi cờ xí chiêng trống ăn mừng ngày chiến thắng phi nhân phi nghĩa. Đó chỉ
là trò khỉ của những con khỉ chưa chịu tiến hoá thành người! Hãy học lại định
nghĩa của hai chữ "giải phóng" thiêng liêng cao đẹp. Hãy học làm
người văn minh, tiến bộ rồi hãy hô hào "hoà hợp hoà giải".
* Nhà
văn Dương Thu Hương: "Tôi khóc ngày 30 tháng Tư 75 vì thấy nền văn minh đã
thua chế độ man rợ." Một người sinh ra và lớn lên trong chế độ CS đã thẳng
thắn phát biểu như vậy. Không hàm hồ chút nào khi nói rằng: "Những kẻ ăn
mừng ngày tang thương này, phải là những kẻ man rợ!"
Đã đổ
quạu rồi! Tắt máy nghỉ thôi.
Peter
Tran
Tháng
Tư đen 2022