Chuyện Kể Lại: Tinh Khôn Ở Đâu?
Trần
Đỗ Cung
Một bạn thân ở Montréal Canada vừa
gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà
Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại
khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của
tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên
tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân
lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông
về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.
Bà Bác Sỹ Đảnh
nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ
Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi
tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt
Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng
Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi
tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến
tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng
năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Câu chuyện Bà
Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt
có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện
công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm
miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của
cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã
đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng
với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem
chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Câu chuyện do
bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt
Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông
không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà
hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm
chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh
cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ
quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp
méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải
qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới
những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc
mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia
đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng
ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù
với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các
quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững
chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối
cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi. Bà nói, "Ai dám bảo
là quân ta không chịu chiến đấu"? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của
du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường
một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng
chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.
Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn.
Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy
nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với
vợ rằng, "Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng
ta. Họ không thể giết hết tất cả". Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã
thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn
nhiều. "Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản. Chúng tôi đã
nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín
ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ
mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ".
Ngày 15
tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant
đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trính diện
nên thấy đỡ cô đơn hơn. "Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy
sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này
kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày
đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như
vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai
quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được
gọi đi cải tạo trong một tuần lễ".
Rồi xẩy ra
việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục
tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải
nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, "Chúng ta bây
giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần
các phương tiện để xây dựng lại chớ"? Bà nói, "Khi tôi nghĩ dến những
đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một
số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để
bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa
sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa"?
Các cán bộ cộng
sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn.
Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì
ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. "Tôi đâu có
ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ
muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu
tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè
dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau
cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên".
Một tháng sau
khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn
luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh.
Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được
hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được
mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng
đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người
giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng
quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại
có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng
bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận
tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối
đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại
bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất
các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có
kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy
trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các
thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính.
Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và
các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được
bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.
Mỗi nhà giam có
thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt
đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi
chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo. Anh nói, "Trong hoàn
cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một
áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét
mướt"! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã
khóa chặt nhà tù.
Đồ ăn thật đơn
sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có
nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực.
"Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động"! Vấn
đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp
hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ
điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.
Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã
phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi
của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít
chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những
báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và
gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn
cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất
hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu
thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù
phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. "Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối".
Từ tháng 10/11,
1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở
Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40
khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một
ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ
công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã
có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng
theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng
lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.
Một ngày đen
tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán
bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. "Chồng tôi ghi chép nhật ký trong
một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội
vã thủ tiêu cuốn sổ". Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ
với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt
đầu bị khóa. Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây
cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh
dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.
Chừng 7 tháng
sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám
vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, "Chồng chị đang bị
giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên
đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp". Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, "Chị
biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là
việc nhẹ dành cho người yếu sức"! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống
vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
"Chồng tôi
chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng
Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng,
đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt
làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc
cộng sản". Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra
một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ.
Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng
xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người
biết đây là đất địch. Có các bà chửi, "Đồ Tàu Phù khốn kiếp"! Thì ra
họ tưởng là tù binh Trung Quốc.
Cán bộ la to, "Đây không phải là tù binh Trung Quốc".
Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật
thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát
ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một
hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ
qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.
Ban quản trại
đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát
nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán
bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm
tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi
phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình.
Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.
Về phương diện
vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một
tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù
trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu
chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa
con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải
nấu sôi để uống. "Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm
rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh
còn đùa rằng, "thật may là da và phổi còn tốt".
"Tôi cố
tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù
cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp
trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn
lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu
hơn".
Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.
Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May
thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và
nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay
thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra
máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy
bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. "Khi đã lên máy bay, không ai biết
được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép
đi nên không có ai dám cản trở về".
Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. "Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành".
Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà
Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần
nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ
đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra
không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ
giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5
giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc. Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và
"tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua
nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ
nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh".
"Tôi nghĩ
cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới", thi anh xúc động hỏi lại,
"Bộ chúng không đủ ăn sao"? Bà chậm rãi trả lời, "Chúng muốn làm
lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi". Ông Thảo suy
nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò,
"Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ"!
"Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia
đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận
hiện tại".
Sau một giờ thì
cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp
hàng về phòng giam. "Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con
và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau". Lần thăm nuôi chỉ có
bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có
chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. "Rã
rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết
tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết
có gặp lại nữa không"?
Hà Nội một
thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một
đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu
mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. "Tôi không
muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì
tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn
tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền
Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được
với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt
đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng".
Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gập một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.
Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo
đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, "Không chối cãi việc Việt Cộng
đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số
đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức
tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt
tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm
hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu
nước không bao giờ xóa tẩy được". Bà Đảnh kết luận, "Tôi chấm dứt
bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy":
"Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con
quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai
trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất
hứa".
Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Ông ta đã học thuộc lòng câu "Hồng hơn Chuyên" của Mao
nên cũng nói "Trí Thức là Cục Phân" cho nên khi chiếm Sài Gòn chính
trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu
thời gian và công của. Hệt như "bước nhẩy vọt" của Tầu Mao trong kế
hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa
đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi
quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm.
Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu.
Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài
và có tin được chăng?
Trần Đỗ Cung
No comments:
Post a Comment