Năm mới nói
chuyện Phúc
Ngọc Liên
Văn hóa cầu phúc trong
dân gian có nguồn gốc lâu đời, cái gọi là cầu phúc là chỉ mọi người kính Trời
bái Thần, nhất là trong lúc gặp nguy nạn, hy vọng được Thần linh bảo hộ, tăng
phúc vận, hóa nguy thành an, bình an vượt qua kiếp nạn.
-Nguồn gốc và ý nghĩa chữ
Phúc
-Thiên hạ đệ nhất Phúc
-"Phúc" đến từ đâu?
Khi Tết truyền thống đến, người ta thường dán chữ Phúc lớn và những câu mang
đầy sắc thái vui vẻ lên cổng như "Nghênh xuân chúc phúc", "Khai
môn nghênh phúc", "Nghênh xuân tiếp phúc", "Tân xuân thuyết
phúc". Mọi người còn thích dán những chữ Phúc lớn nhỏ đủ kích thước lên
cửa, lên tường, trên mi cửa. Chữ Phúc chỉ phúc vận, phúc khí, phúc tinh, phúc
phận, phúc chỉ, phúc đến tâm linh, hạnh phúc, là có ý gửi gắm những hy vọng tốt
đẹp vào năm mới đang đến. Chữ "Phúc" này không chỉ được dân thường
yêu thích mà hoàng tộc cũng rất yêu thích, hoàng đế nhà Thanh đã viết chữ chúc
mừng năm mới và chúc phúc cho thường dân. "Phúc lành" này đến từ đâu?
Nguồn gốc và ý nghĩa
chữ Phúc
Từ khi có văn tự là đã có văn tự tượng hình chữ Phúc. Chữ Phúc trong chữ Giáp
cốt biểu thị ý nghĩa là "hai tay dâng rượu và thức ăn cúng trước Thần
Chủ". Đây chính là miêu tả hình tượng cúng tế thời cổ đại, hàm nghĩa là
cúng tế Trời cầu khấn, kính bái Thượng Đế sẽ đem đến bình an và niềm vui bất
tận, dó chính là phúc chân chính.
Chữ Phúc trong chữ Giáp
cốt biểu thị ý nghĩa là "hai tay dâng rượu và thức ăn cúng trước Thần
Chủ".
Trong chữ Hán, chữ Phúc (福) gồm bộ Kỳ (示) là chữ tượng hình biểu thị đàn tế, có liên
quan đến cúng tế, Thần linh, cầu nguyện, mong muốn. Người cổ đại tiếp cận đàn
tế là muốn được sự chỉ dẫn của Thượng Đế và sự khải thị của Thần tính. Sau này
ý nghĩa chữ tượng hình này mở rộng là "khải thị", khi dùng làm bộ
thủ, nó đại biểu Thượng Đế hoặc Thần linh. Chữ bên phải được giải thích là
"nhất khẩu điền" mà Thần ban cho, cũng có giải thích là mỗi người đều
có "nhất khẩu điền" (ruộng lương tâm) mà Thần ban cho, tìm về miền
tịnh thổ của tâm linh, thì phúc lập tức đến. Chữ Phúc biểu thị mọi người thành
kính tín Thần thì Thần ban phúc. Phúc là "nhất khẩu điền" (ruộng
lương tâm) mà Thần ban, ý nghĩa là: mỗi người đều có ruộng lương tâm mà Thần
ban, tìm lại "nhất khẩu điền" đó trong tâm thì phúc liền đến.
"Tả truyện" viết: "Phúc, hựu dã" nghĩa là: Phúc là được
Thần linh bảo hộ, gặp hung hóa cát là phúc.
"Tả truyện – Trang Công 10 niên" viết: "Tiểu tín vị phu, Thần
phất phúc dã", nghĩa là: Chữ tín nhỏ thì chưa đủ thành tín, thì Thần không
ban phúc cho. Chữ Phúc ở đây cũng có nghĩa là phù hộ.
Trong Nhã tụng của Kinh Thi có viết: "Báo dĩ giới phúc, vạn thọ vô
cương", nghĩa là: Báo đáp bằng phúc lớn, vạn thọ vô cương;
Và: "Quân tử vạn niên, phúc lộc nghi chi", nghĩa là: Quân tử (người
tốt) thì vạn năm an hưởng phúc lộc.
"Thuyết văn giải tự" viết: "Phúc nghĩa là đầy đủ. Đầy đủ là mọi
việc thuận lợi. Không nơi nào không thuận lợi gọi là đầy đủ".
Vậy Phúc cụ thể là chỉ những gì? Người xưa quy kết lại ở 5 phương diện gọi là
Ngũ Phúc, tức hạnh phúc, may mắn, trường thọ, yêu chuộng mỹ đức và hòa bình.
Thư pháp xưa nay có truyền thống viết chữ Phúc, chữ Phúc trở thành nội dung
quan trọng của tác phẩm thư pháp của mọi người. Các văn nhân mặc khách trong
lịch sử đã viết rất nhiều chữ Phúc để lại cho người đời sau, các thể chữ khải,
hành, thảo, lệ, triện đều có đủ, quy cách đa dạng, nội hàm phong phú. Đặc biệt
là trong giới thư pháp từ lâu đã lưu truyền "Bách phúc đồ" (bức thư
pháp trăm chữ Phúc), "Thiên hy đồ" (bức thư pháp nghìn phúc lành) là
kiệt tác ảnh hưởng đến thế giới.
Thiên hạ đệ nhất Phúc
Tương truyền Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh viết chữ Phúc để cầu phúc cho bà
ngoại, được ca ngợi là "Thiên hạ đệ nhất phúc". Khang Hy cả đời yêu
thích thư pháp, tuy thư pháp của ông cực đẹp nhưng lại rất ít khi đề chữ, nên
cũng có câu nói rằng "Khang Hy nhất tự trị thiên kim" (một chữ của
Khang Hy đáng giá ngàn lượng vàng).
Ngoài ra, vào ngày mùng 1 tháng 12 âm lịch cuối năm, ông còn viết một chữ
"Phúc" lớn nhiều lần, trao nó cho các hoàng tử, các đại thần và những
người tùy tùng để chào đón lời chúc năm mới. Việc viết lời chúc phúc của Hoàng
đế Khang Hy đã trở thành hình mẫu cho các hoàng đế tương lai của nhà Thanh.
Chữ Phúc do đích thân Khang Hy ngự bút này có bút pháp tròn đầy khỏe khoắn, và
dùng ấn ngọc tỷ "Khang Hy ngự bút chi bảo" đóng ở trên, được ca ngợi
là đã thể hiện ra phúc khí chính tông của văn hóa truyền thống. Chữ Điền trong
chữ Phúc này còn chưa đóng kín, vì vậy mọi người cho rằng đó là "Hồng phúc
vô biên" (Phúc lớn vô biên), "Vô biên chi phúc" (Phúc vô biên).
Trong dân gian ca ngợi chữ Phúc đó là "Ngũ phúc chi bản, vạn phúc chi
nguyên" (Cái gốc của Ngũ phúc, cội nguồn của Vạn phúc).
"Phúc" đến
từ đâu?
Mỗi người đều mong muốn có được phúc khí và phúc phận, đón lành tránh họa.
Nhưng rốt cuộc làm thế nào mới có được phúc thực sự? Người như thế nào mới được
coi là có phúc? Người xưa nói: "Đạo Trời không thân với ai mà thường ban
phúc cho người thiện"; "Ông Trời không thân với ai mà chỉ giúp người
có đức". Ý nghĩa là Đạo Trời công bằng, không thân sơ, đối với tất cả mọi
người đều coi như nhau, nhưng hành thiện là phù hợp với Đạo Trời, do đó Đạo
Trời luôn ở cùng với người thiện lương, khiến người thiện lương khi làm việc
như có Thần trợ giúp.
Cũng có nghĩa là làm nhiều việc thiện thì có phúc, đúng như Phật gia nói:
"Thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải không báo mà chưa đến
lúc". Chỉ có những sự tình phù hợp với Thiên Đạo thì mới cảm động Trời
Xanh, mới có thể được Thần trợ giúp. Vì vậy phúc gắn liền với chân thành, thiện
lương, vô tư, phúc luôn xuất hiện bên thân người có đức hạnh, phúc xung khắc
với giả dối, gian trá, nham hiểm và độc ác như nước với lửa.
Phúc gắn liền với đức. Phúc đức chính là đạo đức và hạnh phúc, là một phạm trù
quan trọng trong văn hóa luân lý truyền thống. Cái gọi là hiếu đức là chỉ bản
tính thích đạo đức. Đức là một trong những con đường trọng yếu của chủ thể hành
vi để đạt được hạnh phúc, tránh được bất hạnh.
Lý giải về quan hệ đức – phúc, chủ yếu bao gồm nội dung hai
phương diện. Đầu tiên, con người có hạnh phúc hay không là do Đạo Trời hoặc
Thần quyết định. Đạo Trời hoặc Thần có ý chí nắm giữ công chính, thưởng thiện
phạt ác. Vì vậy mọi người kính sợ mệnh Trời, biết cảm ân, tri ân, báo ân, tu
đức, tăng trưởng phúc đức. Như trong Kinh Thi đã nhấn mạnh cần tu dưỡng đức
hạnh, hợp với mệnh Trời, đạt được mục tiêu giá trị "hợp với mệnh
Trời", tương hợp với ý chí và mệnh lệnh của Trời, thì kết quả tự nhiên sẽ
được "đa phúc".
Thứ hai là, mặc dù Đạo Trời hoặc Thần làm chủ phúc họa của con người, có thể
cảm nhận được thiện ác, đức hạnh của con người, nhưng con người ai cũng có thể
thông qua tu dưỡng đức hạnh để thay đổi vận mệnh. Đức hạnh tốt đẹp sẽ được
Thượng Thiên ban phúc, hành vi vô đức sẽ dẫn đến mất đi phúc phận và tai họa
giáng xuống thân.
Tất cả phúc họa mà con người nhận được đều không phải ngẫu nhiên. Có câu cổ ngữ
rằng: "Phúc họa không có cửa, chỉ là do con người chiêu mời đến";
"Họa do ác tạo ra, phúc do đức sinh ra".
Có thể thấy cội nguồn của phúc họa là ở nhân tâm. Khổng Tử nói: "Quân tử
lo Đạo chứ không lo nghèo"; "Quân tử lòng thản nhiên, bình thản, tiểu
nhân luôn lo lắng nơm nớp"; "Tự nhìn vào nội tâm phản tỉnh thì không
phạm tội lỗi, như thế có gì phải lo có gì phải sợ đâu".
Quan niệm hạnh phúc của Khổng Tử là ở hoàn thiện đức tính nội tại, chỉ có bậc
chính nhân quân tử thực hiện đạo nghĩa thì mới có thể được hưởng hạnh phúc vô
tận.
Tôn Tư Mạc – y học gia, dưỡng sinh gia đời Đường, đã viết trong "Phúc thọ
luận" rằng: "Phúc là tích lũy của việc thiện; họa là tích lũy của
việc bất thiện"; "Phúc có thể dùng thiện lấy được".
Ông chỉ ra, phúc là tu được từ thiện, hành thiện tích đức, coi việc giúp người
làm niềm vui, không chỉ khiến bản thân tăng thêm phúc phận, mà còn tạo phúc cho
con cháu đời sau. Nếu một người không có phẩm hạnh, không có đức hạnh, tác oai
tác quái, dục niệm tà ác, thì họa cũng theo đó mà đến, mà không có hạnh phúc
đích thực. Do đó vô đức tức là vô phúc, đức hạnh là tiền đề của phúc, đề xướng
con người cần phải tu đức hướng thiện, không ngừng nâng cao tu dưỡng đạo đức
thì sẽ có được hạnh phúc, sẽ có được phúc đức và phúc báo.
Ngọc Liên