Nhưng taxi ở đây nghe nói
cũng có loại của tư nhân, máy chạy cây số đã chỉnh lại cho chạy nhanh hơn, tiền
sẽ tính nhiều hơn, nhưng dù sao dựa trên máy dù máy dởm cũng đỡ phiền phức hơn
qua những người cò cốt. Nghe cũng buồn nhỉ.
Cô bạn xin tôi số điện
thoại và cho tôi số của cô. Anh lái xe vui vẻ hỏi: "Hai cô về đây làm ăn
hả? Ở Việt Nam bây giờ làm ăn nếu có vốn sướng hơn ở ngoại quốc nhiều đó
cô." Tôi cười: "Muốn làm ăn có lời ở đây phải lanh, phải quen biết,
phải liều em ơi. Cô không có cả ba thứ đó nên thôi làm ở ngoại quốc rồi về đây
ăn coi bộ có lý hơn." Cậu lái xe cũng cười theo. Cô bạn cũng nhếch miệng
cười, cái cười hiếm hoi từ lúc tôi gặp cô tới giờ làm khuôn mặt cô sáng hẳn
lên. Cô này cũng thuộc loại xinh đẹp mà sao ông chồng có thể bỏ bê được. Đúng
là các ông chỉ ham của lạ và mê của ngọt.
Đường phố Sài Gòn mới hơn
một năm tôi chưa trở lại mà đã thay đổi quá nhiều. Nhịp độ xây dựng của thành
phố nhanh đến chóng mặt. Các con đường ngập tràn cửa hàng, cửa hiệu. Các tiệm
ăn mọc lên như nấm. Số lượng xe xích lô giảm đi một cách đáng kể. Xe chạy đã cả
mười lăm phút tôi mới thấy có một cái xích lô. Không biết những người làm nghề
này làm sao sinh sống. Bóng các người ăn xin nằm vạ vật ngoài đường cũng không
nhìn thấy. Anh lái xe nói dạo này thành phố gần như đã hết cảnh ăn xin. Âu cũng
là một hiện tượng tốt.
Tôi sợ cảnh đi vào tiệm
ăn, vừa ăn xong đã có những đứa bé chạy tới bê tô phở thừa trút vào những ống
lon dơ bẩn, làm bữa ăn vừa xong trở nên nặng nề, và người ăn cảm thấy thật tội
lỗi khi đã có thể vui trước những cái đau khổ, đói rách của những người đồng
chủng.
Tôi cũng sợ cảnh đi tới
đâu, luôn có những cánh tay chìa ra xin tiền, không cho thì áy náy, cho một
người thì cả một đám người từ đâu ùa đến làm bỏ chạy không kịp. Những hình ảnh
ấy đã làm những ngày ở Việt Nam mấy năm trước trở nên u ám sầu bi chi lạ.
Rồi cảnh những đứa bé chỉ
vài tháng vứt ở góc đường, với một đứa bé lớn hơn gầy ốm nằm úp mặt bên cạnh,
một tay ôm đứa bé kia, một tay là cái rổ đựng tiền. Không cho thì cầm lòng
không đặng, mà cho thì biết là mình đang tiếp tay cho những kẻ nào đó đứng sau
lưng dàn ra những cảnh đau thương.
Nghe nói đã có những người
đầu nậu, đưa cả một làng vào ở lây lất ở Sàigòn, sáng thả người ra ăn xin,
chiều gom người lại thu hết tiền. Nghe thật thê thảm, cũng may những hiện tượng
này nghe nói đã không còn nữa, nếu không những ngày sắp tới của tôi ở đây lại
thêm những giờ trằn trọc khó ngủ và ray rứt.
Trên đường phố cũng không
thấy ai mặc áo bạc màu hay rách rưới. Tương đối đa số ăn mặc rất gọn gàng, sạch
sẽ. Số người ăn diện theo mốt thời thượng như anh lái xe thì vào buổi chiều
chưa xuất hiện. Thường phải khi thành phố lên đèn, thiên hạ mới túa ra đường đi
ăn, đi chơi buổi tối.
Tới nhà chồng cô bạn đồng
hành, căn nhà ở khu phố tương đối tươm tất, hẻm rộng, có đám trẻ đang chơi dưới
hàng cây, thấy các em ăn mặc cũng rất gọn gàng và sạch sẽ. Cuộc sống vật chất
hình như đã có vẻ khá hơn. Cô bạn cám ơn tôi và đi theo đám người nhà chạy ra
tận xe đón vào nhà.
Xe đưa tôi về nhà, cái ngõ
nhà tôi cũng đổi khác hẳn đi với rất nhiều nhà mới đang xây cao nghễu nghện.
Tôi không hiểu sao những gia đình thấy không giàu gì lắm mà có thể xây nổi
những căn nhà lớn như vậy. Đúng là không phải việc của mình mà vẫn tò mò và
thắc mắc. Con đường bên ngoài đã được mở rộng, gần như nhà nào cũng mở hàng
quán. Buổi chiều, các quán ăn, quán nhậu đã đầy người.
Những ngày sau đó, tôi bận
rộn đi thăm những người quen, hết người này kéo đi ăn lại đến người kia. Các
quán ăn nhậu ở Sài Gòn mở ra khắp nơi. Các siêu thị nườm nượp người. Đi trên
các phố lớn như Đồng Khởi, Nguyễn Huệ hay vào các nhà hàng lớn, các hàng quán ở
quận một, quận ba, đa số là người Bắc sau 75.
Không hiểu sao người ta có
thể giàu nhanh lên như thế. Tuy nhiên, cũng có một số người Bắc ở các làng quê
mới vào làm các nghề vặt vãnh như chạy xe thồ, bán bắp, bán xôi. Nhưng nhóm này
chiếm tỉ lệ rất ít. Các sạp trong chợ phần lớn chủ là người sống ở miền Nam từ
trước 75.
Có một lần tôi ghé hàng
chén bát trong chợ Bến thành. Cô bán hàng ăn mặc rất giản dị, nói tiếng Pháp
trôi chảy, giọng rất đầm với một cô khách người Pháp. Thật lấy làm tiếc cho một
người học hành như thế giờ chỉ quây quần với đám chén bát bán trong chợ. Nhưng
dù sao, thu nhập của các quán hàng trong chợ cũng rất cao.
Tốt nghiệp đại học không
có việc làm đầy dẫy, tỉ lệ kiếm được việc làm thu nhập vài trăm đô một tháng
rất ít. Ra chợ bán, có thể kiếm vài trăm đô dễ dàng. Vậy thì có ngại ngần gì
khi ra chợ làm chủ shop của mình, nhìn vào thì thấy vất vả một tí nhưng tương
đối tự do, công việc lại vững vàng.
Cơm trưa chỉ việc ngoắc
tay đã có người bưng ngay đến, buổi trưa thưa khách, có thể ngồi vắt vẻo cho
người làm móng tay, móng chân, hay nhờ người trông hàng để chạy đi tắm hơi,
massage mặt, gội đầu, v.v... Buổi xế có thể vừa ăn vặt vừa tán dóc với các bạn
hàng bên cạnh, hay rảnh rang đọc một vài cuốn sách.
Nói đến thú đọc sách, lúc
trước vẫn nhớ đám đồng nghiệp ngoại quốc rất phục dân Việt Nam khi đất nước coi
như không có người mù chữ, khi họ đi trên đường, gần như hầu hết những người
bán hàng, từ tủ thuốc lá lề đường, đến các xe bán hàng, ai nấy nếu rảnh là lại
chúi đầu vào một tờ báo hay một quyển sách.
Các đứa bé bán vé số, bán
đồ lưu niệm dọc đường phần đông đi học một buổi, một buổi đi bán. Chẳng cha mẹ
nào để con cái thất học dù nghèo khổ đến đâu chăng nữa, dù biết có hết lớp mười
hai cũng chưa chắc đã có một chỗ ngồi trong đại học, dù biết có tốt nghiệp đại
học cũng dễ gì kiếm ra một việc làm tương xứng với khả năng.
Cái truyền thống của dân
tộc hình như vẫn trọng cái chữ và mảnh bằng dù biết nhất sĩ nhì nông, hết gạo
chạy rông, nhất nông nhì sĩ. Nhưng lúc đó hãy hay, bây giờ còn cha còn mẹ, còn
có thể đi học thì hãy cứ đi học cái đã.
Những ngày ở đây, tôi có
cái thú lang thang đến các tiệm sách. Ngoài cửa hàng sách Nguyễn Huệ hai tầng
lầu rất lớn, các cửa hàng sách khác cũng rất lớn. Sách bây giờ đầy ra, đủ thể
loại, in theo đủ mẫu mã. Từ kiếm hiệp, truyện dịch, truyện Việt Nam dài, ngắn,
các tác phẩm khảo cứu, nhạc, truyện thiếu nhi, truyện tranh, v.v... như rừng
vậy.
Mấy năm trước, vào hiệu
sách nói với các cô cậu bán sách giới thiệu hộ ít quyển sách hay để mua thật dễ
dàng. Các cô cậu này nhìn phần lớn có vẻ là học sinh vừa tốt nghiệp trung học
hay sinh viên đại học nên có vẻ đọc nhiều. Nhưng bây giờ thì các cô cậu có vẻ
lúng túng vì số lượng sách ra quá nhiều, và thị hiếu của khách hàng cũng muôn
màu muôn vẻ. Các cô cậu ấy chỉ có thể nói: Cuốn này thấy bán rất chạy, cuốn kia
của một nhà văn rất nổi tiếng, v.v...
Cẩn thận hơn, có cô cậu
còn nói: "Cuốn này bán chạy lắm nhưng không biết có hay không vì cuốn này
được báo giới thiệu nên người ta hỏi nhiều." Trong các cửa hàng sách,
ngoài sách còn có thể tìm thấy băng, CD, DVD, các đĩa thu software lậu, các
dụng cụ văn phòng phẩm, các đồ lưu niệm, thôi thì đủ thứ trên đời.
Trên khu bán sách cho
thiếu nhi, nhìn như thư viện vậy, các em bé ngồi đầy dưới sàn đọc sách. Nhìn
thấy thật thương và ứa nước mắt. Nhưng nói cho cùng, sách thì nhiều quá, in rất
đẹp, đủ thể loại, thư viện thì không có, các em thích đọc sách chỉ có thể vào
tiệm sách ngồi trên sàn bên cạnh các kệ sách để mà đọc. Dù sao cha mẹ các em
cũng may mắn là con cái không lêu lổng. Và các em này chắc gia cảnh cũng khá
hơn nhiều em bé vẫn đi vào các tiệm bán vé số hay đánh giầy.
Rời tiệm sách tôi lang
thang ra khu Huỳnh Thúc Kháng mua DVD. Thôi thì đủ loại. Các người mua hàng
ngồi trên những ghế thấp, lựa dĩa từ các túi xách đặt trên các bàn nhỏ trước
mặt. Khách cần loại DVD nào là có ngay người chạy đi đâu gần đó lấy về những
túi xách nhỏ đầy nhóc những DVD không hộp cho khách lựa.
Họ không để nhiều trong
cửa hàng có lẽ sợ bị công an ụp vào bắt thình lình. Cô bán hàng nói: Chị mua
đợt này xui tại nguồn hàng từ Trung Quốc qua mới bị bắt nên hàng không có
nhiều. Giá một DVD chưa tới hai đô Mỹ, giá CD chỉ khoảng 50 cents. Nhưng CD gốc
giá chính thức chỉ khoảng hai đô Mỹ, chả dại gì mua CD copied về cái nghe được
cái không. CD, VCD sao lại trong nước chất lượng không tốt bằng DVD copied ở
Trung Quốc. Tuy nhiên ở một số nơi vẫn có DVD sao lại trong nước từ những DVD
đã được sao từ Trung Quốc mang về. Mua loại này đem về có thể không xem được
hay dĩa bị đứng, nhảy hình, rất khó chịu.
Đi mua hàng ở Việt Nam
hiện nay khá thoải mái, các cửa hàng dịch vụ quá nhiều nên cạnh tranh nhau. Giá
bán cho Việt kiều và dân trong nước không còn chênh lệch nhiều nữa. Lâu ngày
người dân đã hiểu là những người Việt kiều cũng phải làm ăn khó khăn và chật
vật ở xứ người, chứ không phải đồng tiền của họ là từ trên trời rơi xuống.
Hơn nữa, trong nước lúc
sau này sản sinh ra một giai cấp rất giàu, vì buôn lậu, vì hối lộ, vì gặp thời
cơ trúng lớn, v.v... Những người này hạ vị trí Việt kiều xuống rất nhanh. Vào
những cửa hàng ăn chơi, mua bán hàng hoá cao cấp, những người này vung tiền đô
la như nước. Việt kiều về nhiều quá, nên Việt kiều có đi đường cũng chẳng ai
thèm ngó.
Tuy nhiên, vào các cửa
hàng, một số nhân viên phục vụ có vẻ vẫn thích Việt kiều vì có lẽ đa số Việt
kiều ăn nói lịch sự hơn những người mới nhờ thời thế mà lên. Rất nhiều siêu thị
mọc lên, bán đủ loại hàng, giá cả bấm sẵn, khỏi lo vấn đề mặc cả. Các nhân viên
ở đây cũng mặc đồng phục, đeo bảng tên. Vào các cửa hàng ở Đồng Khởi, thương xá
Tax, các người bán hàng hay nói tiếng Anh, có lẽ họ tưởng tôi không phải Việt Nam
chăng vì các bà Việt Nam đi một mình thường không vào những khu này, giá mắc
nhiều so với ngoài chợ.
Một buổi sáng tôi bước vào
thương xá Tax, mua một tủ đựng nữ trang nhỏ. Đi tìm vòng vo, các cô bán hàng
chỉ lên lầu ba. Lên đó, thấy một cửa hàng để mảng giấy lớn: "Bán đúng giá
niêm yết." Tôi mừng quá, vậy là khỏi phải qua khâu mặc cả, cái mà tôi vẫn
sợ nhất. Cầm lấy cái tủ nhỏ xíu bằng gỗ vừa ý, thấy giá để 465 000VND (khoảng
30 đô Mỹ). So với giá ở ngoại quốc thì không mắc, cô bé bán hàng khoảng mười
mấy tuổi, nhìn thật xinh xắn và thùy mị, nhẹ nhàng nói: "Cô lấy thì con
bớt cho cô năm chục ngàn." Tôi cười vì thấy coi bộ những chữ trên tấm bảng
trước cửa đã có vẻ hơi lạc điệu, coi bộ có màn mặc cả rồi, tôi khẽ lắc đầu quay
đi, cô bé bán hàng níu lại, cặp mắt ngây thơ van nài: "Mới sáng ra cô trả
dùm con một hai tiếng mở hàng đi cô", tôi cười trả đại "ba trăm ngàn
thôi." "Ba trăm con bán không được, không đủ vốn cô ơi".
Tôi vội quay đi, nhưng cô
bé níu lại và ngọt ngào chèo kéo. Dứt bước ra đi không nổi với giọng nói ngọt
như mật và cái nhìn ngây thơ của cô, tôi ôm cái hộp đi với cái giá ba trăm tám
chục ngàn, biết là mình mua hớ mà chẳng biết hớ bao nhiêu. Sau mới biết ở chợ
Bến Thành cái hộp này giá khoảng một trăm hai chục ngàn. Vậy là mắc hơn gấp ba,
dù biết là mình sẽ mắc bẫy mà vẫn mắc bẫy như thường, một cái bẫy ngọt ngào,
như vậy thì đừng trách gì các ông.
Nhớ lại cách đây vài
tháng, cậu cháu trở về sau khi qua làm ở Việt Nam một năm, hai vợ chồng bắt đầu
xào xáo vì một lá thơ gửi sang: "Anh ơi, anh nói với chị là em hiền lắm,
em chịu nhịn, và bằng lòng làm bé, anh nói với chị để bảo lãnh em qua."
Cái hiền chết người này làm hai vợ chồng cậu cháu cãi nhau hàng ngày, ai bảo cô
vợ dữ quá, người ta chịu nhịn mà cô không chịu nhịn thì làm sao...
Các cửa hàng massage, tắm
hơi, sửa sắc đẹp, cắt tóc cũng mọc lên như nấm. Giá cả tuy rẻ hơn so với nước
ngoài nhưng so với người trong nước vẫn còn cao vọt. Khách hàng của các tiệm
này đa số là các khách nước ngoài, các vị có quan, có chức hay có tiền. Còn đa
số các người đi làm sống vì đồng lương chắc chẳng ai vào đây.
Vào đây các cô gái ăn nói
rất nhỏ nhẹ, ngọt ngào dù khách hàng là nam hay nữ, vì đa số sống nhờ tiền
lương thì ít, mà nhờ tiền bo (tiền tips) thì nhiều. Vào đây, nếu dự trù chi phí
khoảng một trăm rưởi ngàn, chi phí này sẽ lên gấp đôi, gấp ba dễ như không khi
các cô ngọt ngào giới thiệu thêm các dịch vụ khác.
Các cô gái làm ở đây còn
rất trẻ, chỉ trên dưới hai mươi. Có một số từ tỉnh lên, làm việc và ăn ở luôn
tại chỗ làm. Đa số các cô ngoài giờ làm việc, trải thời giờ trong các tiệm
internet. Cô nào cũng thích chat, để biết đâu có cơ hội quen được một Việt kiều
về làm lễ cưới đón đi.
Các quán internet mở khắp
nơi, đầy các ngõ hẻm, giá chỉ từ bốn đến sáu ngàn một giờ (khoảng 30 cents),
nên lúc nào cũng đông khách. Buổi tối thì hình như không thể nào kiếm ra một
máy trống, từ sinh viên học sinh đến các cô công nhân, thợ cắt tóc, v.v... Ở
đây dạo này còn bán các thẻ gọi điện thoại qua internet giá rất rẻ, bảy chục
ngàn đồng gọi được hai ba tiếng.
Lại đây thấy các cô bỏ
hàng giờ ra thủ thỉ với các anh bên nước ngoài. Nhiều cô nhìn vóc dáng rất tội
nghiệp, không biết sẽ có bao nhiêu cô may mắn được các anh về bảo lãnh đem qua
khi nhìn thấy tận mặt. Dù sao, những giờ chuyện trò đó cũng là những niềm vui
của các cô. Sau khi rời máy, các cô lại trở về với công việc thấp hèn của mình,
đời sống cực khổ nhưng với lòng tràn trề hi vọng và thoải mái vì đã sống trong
những phút đầy ắp mơ ước ngọt ngào.
Đời sống cơ cực quá nên
một ngày có được vài tiếng đồng hồ sống trong ảo tưởng, cũng là một điều hay,
và biết đâu may mắn có thể đến với các cô. Biết đâu, ừ nhỉ, biết đâu đấy, tôi
thật lòng cầu nguyện điều hay sẽ tới với các cô gái này.
Các quán café cũng mở ra
vô số, nhiều quán trang bị rất đẹp. Có quán còn chia ra nhiều khu, khu dành cho
những cặp tình nhân với cây cảnh và nhạc nhẹ, khu có những dòng thác, dòng
suối, khu có ca nhạc sống, và khu có cả các trò chơi điện tử cho trẻ em.
Vào những quán café này
thấy như mình đi vào thế giới khác, hồn mềm đi một chút, nhẹ đi một chút giữa
cái nóng bức của Sài Gòn, vào để tránh ánh nắng chói chang, mịt mờ bụi và khói
xe. Nhưng cũng đau lòng khi thấy sao mình xa cách quá với những người đang bán
rong ngoài kia, tuy nhiên tiếng nhạc cũng làm dịu lòng đi được một chút.
Các nhân viên bán hàng
trong các tiệm phần lớn đều có đồng phục. Các tiệm sang thì các cô cậu bán hàng
ăn mặc đỏm dáng và bảnh bao, con trai mặc quần tây, áo sơ mi ủi thẳng thớm, có
khi có cả veste nữa; các cô gái hoặc mặc áo dài hay áo đầm rất xinh xắn.
Còn ở các tiệm ăn nhỏ thì
đa số cũng có mặc đồng phục gồm một cái Tshirt in nhãn hiệu nhà hàng. Ở nhiều
tiệm ăn, còn có một số các cô gái mặc váy ngắn, Tshirts mang logo của các hãng
bia, đem bia mời khách uống.
Giá quần áo rẻ nên tương
đối ai cũng ăn mặc tươm tất. Đàn bà con gái Sài Gòn khá thích ăn diện. Đa số
đều làm móng tay, móng chân, trang điểm kỹ càng khi ra đường. Trên đường, các
cô, các bà đi xe gắn máy thường đội nón, che mặt, mang găng tay rất kỹ để bảo
vệ da.
Ngay các người đạp xe ba
gác, xích lô hay chạy xe thồ cũng ăn mặc không đến nỗi tồi tàn. Ở các đầu
đường, đầu hẻm nào cũng thường luôn luôn có năm ba chiếc xe gắn máy đợi khách.
Xe taxi thì chỉ nhấc điện thoại năm ba phút là có xe tới ngay. Các người bán
hàng rong, rau cải ăn mặc cũng tương đối gọn gàng không luộm thuộm rách rưới.
Tuy nhiên nhìn những người
buôn bán dọc đường, hay chạy ngoài chợ, người nào nhìn cũng thấy có vẻ mệt mỏi,
héo úa và hốc hác, tương phản hoàn toàn với đám thực khách đi vào các hiệu
sang, hồng hào sang trọng và mập mạp. Ngay cả những cô cậu bán hàng ở các cửa
hàng này nhìn cũng rất lịch sự và tươi đẹp.
Dân chúng tuổi ba mươi trở
lên ở đây rất chịu khó giữ gìn sức khỏe. Trẻ thì sáng sớm đã theo các lớp thể
dục thẩm mỹ, nhịp điệu. Lớp trung niên hay người cao tuổi thường ra công viên
theo các lớp tập dưỡng sinh, múa gậy, thái cực quyền, khí công, yoga. Buổi sáng
sớm, các con đường dọc theo công viên, bờ sông đã nhiều người đi bộ. Ở các công
viên đã nhộn nhịp các nhóm tập thể dục. Tới gần tám giờ sáng các đám người tập
mới rã hết.
Buổi tối, là giờ đi chơi
của đám choai choai. Đường phố đầy xe. Các cô cậu nhà giàu phóng ào ào trên các
loại xe gắn máy mắc tiền, áo quần rất thời trang. Con trai quần jeans, Tshirts
loại hàng hiệu. Con gái thì ăn mặc cũng theo các kiểu thời trang mùa hè ở ngoại
quốc. Nhiều cô mặc hở nguyên lưng, váy rất ngắn nhìn rất mát mẻ. Các tụ điểm văn
nghệ, các quán nhạc sống, tiệm café, rạp hát, tiệm ăn, tiệm kem nghẹt khách.
Ngoài bến tàu, các tàu lớn cũng sáng choang đèn. Một số tàu vừa làm tiệm ăn,
vừa chạy dọc trên sông từ bảy đến chín giờ tối.
Đám thanh niên ở đây nhảy
đầm rất giỏi, tôi có nghe, có đọc về những tiệm nhảy nơi thanh niên dùng thuốc
lắc nhưng chưa đến bao giờ. Chỉ nhớ lại và thấy buồn cười khi những năm trước
về đây làm việc, mỗi lần sở có hội hè, functions, đám local staff nhảy rất đẹp
trong khi mình thì ngồi trơ như phỗng vì không biết nhảy. Dân ở nước ngoài gì
mà quê hầy, thua xa dân bản xứ.
Thành phố nhộn nhịp đến
khoảng hơn chín giờ tối thì bắt đầu thưa vắng. Ở một số con đường của thành phố
giờ này bắt đầu xuất hiện những cô gái ăn sương, níu kéo các xe gắn máy đàn ông
chạy một mình. Lúc nào thấy bóng công an, bóng các cô gái chạy thoăn thoắt vào
các ngõ tối.
Ban đêm cũng là lúc các xe
đổ rác, quét đường làm việc. Các công nhân làm vệ sinh mặc đồng phục xanh thẫm,
đeo khẩu trang, quét đường bằng những chổi lúa, lùa rác vào những xe ba gác,
rồi đổ những đống rác này vào một góc đường nào đấy cho xe rác lớn tới mang đi.
Thành phố đã không còn những đống rác cao nghễu nghện như trước, cũng là một
điều hay.
Thành phố về đêm, trong
các ngõ nhỏ vẫn thấp thoáng bóng các em bé đi rao mì xực tắc. Tiếng gõ, tiếng
rao buồn thảm thỉnh thoảng lại lẫn vào tiếng rao bánh chưng bánh giò của những
người đàn ông lầm lũi đạp xe đạp len lỏi từng con hẻm nhỏ. Ngoài đường xe cộ
thưa nhưng vẫn có những cửa hàng mở cửa. Có những khu phố hàng ăn nhộn nhịp
suốt đêm. Những người chạy xe thồ vẫn đậu xe đầu những ngõ đón khách suốt đêm.
Những ngày ở Sài gòn của
tôi đã trôi qua như thế, ăn những món ăn hương vị đã không còn đậm đà như trong
trí tưởng lúc ở nước ngoài, đi mua bán lặt vặt, thăm gặp những người quen biết,
những bạn bè cũ. Có những người mới vài năm giàu lên không thể ngờ. Có những
người vẫn đeo đẳng những cuộc sống buồn tẻ và chán nản, nhưng nhìn chung cuộc
sống có khá hơn vài năm về trước dù cũng còn vất vả.
Trong xã hội bây giờ có
một số người giàu không thể tưởng nhưng đa số còn khó khăn và có những người
rất là thiếu thốn. Nhìn các bé gái trong lòng tôi thấy rưng rưng, xã hội vật
chất quá cám dỗ, nếu gia đình không khá giả, giáo dục không kỹ càng, chỉ cần
quen biết vài bạn bè xấu là sa ngã quá dễ dàng. Các bé trai cũng vậy.
Các bạn tôi than, bây giờ
giữ con mệt quá, phải cho đi học thêm đủ thứ, nếu không vào lớp không theo kịp
chương trình. Thày giáo nào cũng dạy tư, nếu học trò không học thêm vào lớp
chẳng biết đường nào làm bài tập và bài thi. Bạn bè thì lại cứ lôi kéo vào
những trò chơi xấu, con cái sểnh ra một chút là hư ngay.
Lúc trước báo có đăng một
gia đình đưa đón con đi học rất kỹ, bà mẹ đã té xỉu khi công an đến còng tay
đứa con trai vì nó theo bạn bè giật đồ của người ta. Bạn tôi cũng kể có đứa con
còn học tiểu học về nói chuyện là để chọc cô giáo, một đám chung nhau tiền ra
mua Seduxen (loại thuốc ngủ chứa diazepam), một viên có hai ngàn, chia nhau đứa
uống vài viên, để cô giáo vào lớp thấy cả đám học trò đang ngủ vật vã.
Bạn khác lại kể, sợ lắm,
con mới học lớp sáu, mà có đứa bạn vào lớp rút ra mấy tờ một trăm đô Mỹ rủ rê
cả bọn đi nhảy đầm, đứa nào không đi thì bị chê quê. Cứ thế, không theo bạn bè
thì bị trêu chọc, theo bạn bè thì hư lúc nào không biết.
Mỗi lần ra đường trở về
tôi lại đâm ra chóng mặt vì bụi, vì nắng và vì nhịp điệu sống thay đổi quá nhanh
của thành phố, vì cái khoảng cách giữa người thật giàu và thật nghèo đã trở nên
quá lớn.
Thành phố Sài Gòn như một
con xúc xắc quay vòng nhiều mặt trong ngày ở những thời điểm khác nhau. Ở một
thành phố dân số lên đến hơn bảy triệu, sức sống ngồn ngộn, nhưng như một bộ
máy quá tải, không đáp ứng nổi tiến độ phát triển quá nhanh của cuộc sống nên
chắc chắn phải có rất nhiều những chông chênh.
Bên bóng những ngôi nhà
cao nghệu vẫn còn những người lao động thấp thoáng đâu đó, đem hình bóng nhoà
nhạt của mình làm bước đệm cho những người có quyền chức đi lên. Bên những ánh
đèn lấp lánh đêm thâu vẫn còn bao nhiêu những thanh niên trẻ lao mình vào cái
sáng loáng của ánh đèn như những con thiêu thân. Bên những ngọn đèn heo hắt
trong ngõ nhỏ, trong những ký túc xá sinh viên vẫn còn bao học sinh, sinh viên
miệt mài học để mong kiến thức của mình sẽ đóng góp được một chút gì cho gia
đình, cho bản thân và cho xã hội, dù biết rằng xác suất thành công rất thấp
nhưng vẫn cố gắng hết mực để biết đâu có cơ hội vươn lên.
Bên những người giàu có
luôn dư thừa những bữa tiệc xa xỉ vẫn còn những người chạy gạo từng bữa, vẫn
còn những người bệnh không thuốc không thang. Thành phố vào giờ cao điểm vẫn
nườm nượp nhiều hình ảnh lẫn lộn của những chiếc xe hơi bóng lộn, những chiếc
xe gắn máy ồn ã, những chiếc xe đạp và ba gác cọc cạch, và những người buôn
thúng bán bưng.
Tôi đã ở trong lòng Sài
Gòn, với những sáng nắng, những buổi chiều mưa. Lang thang từ những con đường
lớn đến những ngõ nhỏ tồi tàn. Bước chân nhỏ nhoi không đi qua hết nổi một phần
mười thành phố nhưng cũng đủ để nhìn thấy phần nào những muôn màu muôn vẻ cuả
cuộc sống ở đây.
Cô bạn gặp trên máy bay
thỉnh thoảng lại gọi điện thoại than khóc, rồi những tiếng động cơ, tiếng người
nói, tiếng buá đập, cưa máy từ các nhà đang xây trong ngõ suốt ngày làm tôi
cũng mệt nhoài.
Ở được một tuần, tôi rời
Sài Gòn trở về Đà Lạt, nơi tôi đã sinh ra và lớn lên, nơi tôi luôn mong ước trở
về nhưng mỗi lần trở về lại rưng rưng nước mắt khi những người thân xưa cũ nay
đã hoặc mất đi hoặc dời đi sinh sống nơi khác.
Đường đi thật là xa lạ, từ
ngã tư Hàng Xanh, đến xa lộ Biên Hoà, những tên đường lạ hoắc, lại cũng đã vài
lần thay tên làm tôi không thế nào nhớ nổi. Cố hình dung con đường hồi xưa, mỗi
sáng đi xe buýt từ trường Khoa học lên khu Sinh lý Sinh hoá ở Thủ Đức mà không
thể nhận ra.
Cố tìm lại cái khúc rẽ vào
trường từ xa lộ mà không thể nào nhìn ra được. Xe đi qua Rừng Lá, Dầu Giây,
rừng cao su, cảnh vật cũng xa lạ không ngờ. Cảnh trí thay đổi quá nhanh hay tại
trí nhớ của tôi đã bắt đầu trở nên mụ mẫm. Định Quán vẫn còn đây với những tảng
đá chồng chất, nhưng sao đã mất cái cảm giác choáng ngợp thuở xưa lúc còn là cô
gái bé tí theo cha về Sài Gòn. Lúc ấy, mỗi tảng đá như ẩn chứa cả một thế giới
kỳ bí. Bây giờ mỗi tảng đá như nằm chơ vơ, vô hồn vô cảm.
Hai bên đường dầy đặc nhà
cửa, chỗ nào cũng thấy xe gắn máy chạy nhan nhản. Các cửa hàng mọc đầy. Xe lên
đến đèo Bảo Lộc, cái cảm giác nhẹ nhàng ngày xưa như đang trở lại, khi xe vòng
lên những đường đèo xanh um bầu lá, thỉnh thoảng có tiếng thác róc rách bên
đường, thỉnh thoảng lại ẩn hiện rặng núi xanh ngắt. Tôi lại được trở về, dù chỉ
trong thoáng chốc với những hình ảnh của ngày xưa.
Càng gần Bảo Lộc, càng
ngửi thấy mùi trà thơm ngát. Các tiệm trà đều mở thêm hàng café hay hàng ăn để
hấp dẫn du khách. Xe ngừng ở tiệm trà Đỗ Hữu ăn trưa. Xuống xe đã nhìn thấy
những quán bán sầu riêng, bơ, chôm chôm và bắp luộc. Bắp ở Việt Nam sao vẫn dẻo
và thơm ngon. Năm ngàn bốn cái, rẻ không ngờ nhưng những người đi cùng xe còn
mặc cả, bốn chiếc ba ngàn thôi. Tôi nhìn thúng bắp, lại một màn tính nhẩm để
không hiểu sao nó có thể nuôi sống cho một gia đình.
Ăn xong, xe lại chạy qua
những đồi trà bát ngát xanh. Nhà cửa hai bên đường cũng mọc lên san sát, có
những ngôi nhà xây dựng rất đẹp, rất bề thế và kiểu cách.
Chạy được khoảng hơn một
tiếng, xe ngừng ở một tiệm bán trà khác. Ở đây bán đủ loại trà, khách được uống
café và trà miễn phí. Các cô gái ở đây còn rất trẻ, chỉ khoảng dưới hai mươi.
Đa số xa nhà, ăn ở ngay tại chỗ làm. Lúc trả tiền, có người cho tiền tips các
cô, các cô bé không dám lấy.
Người đàn bà có lẽ là chủ
tiệm miệng mồm nhanh nhẩu: "Các anh cho tiền bo, tụi nó không dám lấy đâu.
Các anh bắt tụi nó bò thì tụi nó bò cho các anh coi chứ cho tiền bo thì không
dám lấy." Vài người khách sững người trước câu nói này. Tôi không dám nhìn
những cô bé đó, lặng lẽ đi vội ra xe, nghe một nỗi chua xót và căm giận không
biết từ đâu ập tới. Ngồi trên xe mãi, hình như tôi vẫn thấy mình còn đang run
rẩy, câu nói không biết là đùa hay thật của người đàn bà làm cảnh vật hình như
càng u ám. Mưa bắt đầu lất phất ngoài cửa kính, và hình như mặt tôi cũng nhòe
nhoẹt nước mắt.
Hai bên đường, nhà cửa
cũng vẫn san sát, nhưng thấy dân ở đây có vẻ nghèo và hiền hơn dân Sài Gòn.
Quanh vùng Bảo Lộc, Ma Đa Gui (chiến khu D cũ) đa số là người ngoài Bắc sau 75.
Công nhận những người dân Bắc thật giỏi, vào khu kinh tế mới Bảo Lộc hơn mười
năm, từ tay trắng, các gia đình này đã trở nên giàu có không ngờ. Trong khi đám
dân trong Nam không khá lên bao nhiêu nếu tính theo tỉ lệ.
Có người cũng nói là số
dân từ Bắc vào lên nhanh nhờ họ có thần có thế, có quyền có chức nên xin giấy
tờ gì cũng lọt, và lại có kinh nghiệm đã sống trên đất Bắc; nhưng nếu nói một
cách công bằng, thì chắc cũng nhờ một phần vào tính tháo vát, siêng năng và cần
kiệm của họ. Có một vài hãng tơ lụa làm từ dâu tằm nhưng đã đóng cửa. Tôi lại
chua xót nghĩ tới cảnh hàng ngàn công nhân đã bị mất việc, không biết những cô
gái dệt lụa bây giờ đã trôi nổi về đâu.
Dù cây cối ở các đồi, các
con dốc đã bị chặt bỏ rất nhiều, nhưng Đà Lạt vẫn còn những con đường và cảnh
hồ rất đẹp. Sáng sớm, bóng dáng các em nữ sinh mặc áo dài trắng, áo len xanh
trên đường nhìn dễ thương chi lạ, làm hiện về cả một quá khứ ngọt ngào của những
ngày ngây thơ xưa cũ.
Con gái Đà Lạt vẫn má
hồng, mắt đen, da trắng, mái tóc mượt mà , ăn nói ngọt ngào hiền hậu. Hèn chi
tỉ lệ lấy Việt kiều khá đông. Các anh Việt kiều chưa vợ, lên đây gặp các cô gái
xinh xắn, mộc mạc xiêu lòng cưới về nước khá nhiều. Dân Đà Lạt đa số vẫn còn
giữ được nếp sống xưa, con gái đi học về lo việc nhà, quây quần với gia đình,
ít chơi bời đàn đúm.
Người Đà Lạt vẫn như xưa,
nhẹ nhàng và hiền hòa, chợ Đà Lạt vào sáng sớm vẫn đầy những người bán rau cơ
cực. Trời rét, những người này quấn mấy lớp khăn nhìn vẫn nghèo và khổ. Gương
mặt mệt mỏi và xanh xao vì thiếu ngủ, thiếu ăn.
Các người chạy xe thồ nhìn
cũng không được tươm tất như những người cùng chạy xe thồ ở Sài Gòn. Dân ít,
nên kiếm được đồng tiền cũng khá vất vả. Vậy mà nhịp độ xây dựng trong thành
phố cũng phát triển kinh người. Giá đất tăng vọt trong vài năm nay, những ngôi
biệt thự vẫn xây dựng thật lộng lẫy bên cạnh những ngôi nhà đã bắt đầu đổ nát.
Những người có công việc làm tương đối ổn định hơn nhưng cuộc sống cũng lắm cam go.
Ở chợ các em bé đánh giầy
và bán xổ số cũng khá đông. Nhiều em nhìn chỉ bé độ bốn, năm tuổi, một buổi đi
học, một buổi đi bán. Không biết bán được bao nhiêu. Một gánh rau xà lách
khoảng hơn hai mươi kí lô, bán một ngàn đồng một kí, nguyên gánh rau chỉ bán được
hơn một đô, không hiểu họ có thể làm sao nuôi sống được cả một gia đình. Những
người chạy xe thồ cũng nói một ngày kiếm một hai chục ngàn (khoảng trên một đô)
cũng không dễ gì.
Ấy vậy mà sao cuộc sống
lại vẫn cứ trôi đi. Những buổi chiều trời êm, trên ngọn đồi gần sân vận động
đối diện hồ Xuân Hương, tấp nập người ra thả diều. Những con diều đủ màu vẫn
phất phới dâng cao, mặt hồ vẫn phẳng trong xanh, mây trắng vẫn bồng bềnh và hoa
cỏ vẫn tươi tốt. Cuộc sống vẫn hiền hòa thanh thản trong lúc tôi mãi ngồi khóc
mướn thương vay.
Có những tối ngồi ở Thủy
tạ, nhìn sóng dập dềnh, nhắm mắt nhớ lại những khung trời xưa cũ. Bên tai tiếng
đàn chát tai của ban nhạc dân tộc chơi đủ loại bài hát. Tiếng đàn bầu, đàn
tranh, guitare hỗn độn xen lẫn nhau, đã chẳng hoà quyện được mà lại như đối
nghịch ồn ã làm nhà hàng Thủy tạ mất đi cái bản sắc nên thơ của nó.
Nhưng có lẽ nhờ những ồn
ào đó mà nhà hàng trở nên đông đảo với số khách đến ăn và nghe loại nhạc này.
Nếu để đèn mờ, nhạc nhẹ như ngày xưa, biết đâu đã thành một nhà hàng vắng vẻ và
có thể đã đóng cửa không chừng. Cuộc sống đã thay đổi, thì tâm tình, thị hiếu
làm sao giữ được nguyên vẹn như xưa.
Buổi tối nhiều quán
café mở khắp nơi, nhưng sau chín giờ đã bắt đầu hết khách, một vài chỗ còn mở
khuya với số khách thưa thớt trên đầu ngón tay. Đà Lạt vẫn chẳng phải là một
nơi chốn ăn chơi. Đêm chạy xe trên những con đường thật yên ắng, nghe rõ cả
tiếng sương rơi và tiếng gió cựa mình, để hồn lắng đi một chút và thấy là Đà
Lạt trong một góc cạnh nào vẫn còn đẹp lắm.
Rời Đà Lạt, trở lại Sài
Gòn, vẫn còn cái cảm giác ngột ngạt như ngày xưa khi xe qua khỏi cái râm mát
của đèo Bảo Lộc để đi vào không khí nóng nực, bụi bậm của miền Nam.
Hai tuần đã trôi qua, tôi
sửa soạn rời thành phố, cô bạn gặp trên máy bay đã nhắn sẽ về cùng ngày vì cô
ta đã đổi vé lại. Đón cô cùng ra phi trường, cô khóc: "Chị ơi, anh ấy giờ
không chịu về, anh ấy bảo em muốn ly dị thì ly dị, tiền bạc chia ra cho anh ấy
về đây sống, chị bảo em phải làm sao?"
Làm sao ư, tôi cũng chẳng
biết phải làm sao, tôi đã sắp lên máy bay, sắp rời cái thành phố mà ở đó có rất
nhiều những nụ cười, những tiếng khóc, những khuôn mặt lạnh lẽo và những khuôn
mặt mệt mỏi chán chường, cũng có một số ít các khuôn mặt phủ phê thỏa mãn, với
thật nhiều những cảnh đời đa dạng.
Ở đấy, chắc cũng có rất
nhiều người đang tự hỏi họ sẽ sống ra làm sao đây. Làm sao tôi có thể trả lời,
chỉ biết nhắm mắt nghe hai mi nằng nặng. Với cô gái mới quen, chắc tôi phải cho
cô một lời khuyên, gắng tìm cho cô một lối thoát, chắc chắn là như thế, nhưng
lúc này đây, tôi chẳng biết nói gì.
Đầu óc lơ mơ, nghĩ đến một
chuyến trở về rồi lại ra đi, hay ngược lại, tôi đã làm một "chuyến ra
đi" từ xứ Úc bình yên, và giờ đây là chuyến trở về? – tôi thật cũng chẳng
biết. Lúc này đây, tôi chỉ biết mình đang ứa những gịot nước mắt khóc theo cô
bạn mới quen. Và Sài Gòn ơi, chào nhé...