Monday, 27 February 2023

Dân tộc vĩ đại của Ukraine vĩ đại!

 Dân tộc vĩ đại của Ukraine vĩ đại!

Một năm trước, vào ngày này, từ chính nơi này, vào khoảng bảy giờ sáng, tôi đã nói với các bạn bằng một tuyên bố ngắn gọn, chỉ kéo dài 67 giây. Trong đó thể hiện hai điều quan trọng nhất cả lúc đó và bây giờ. Rằng là Nga đã bắt đầu một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại chúng ta. Và rằng chúng ta mạnh mẽ. Chúng ta đã sẵn sàng cho bất cứ điều gì. Chúng ta sẽ chiến thắng tất cả. Bởi vì chúng ta là Ukraine!

Ngày 24 tháng 2 năm 2022 đã bắt đầu như thế. Ngày dài nhất trong cuộc đời của chúng ta. Ngày khó khăn nhất trong lịch sử cận đại của chúng ta. Chúng ta thức dậy sớm và đã không ngủ kể từ đó.

Ai đó sợ hãi, ai đó bị sốc, ai đó không biết phải nói gì nhưng mọi người đều cảm thấy phải làm gì. Trên đường xuất hiện tắc nghẽn, nhưng nhiều người đã đi lấy vũ khí. Đã có những hàng dài xếp lượt. Ai đó đứng ở biên giới nhưng nhiều người xếp hàng đăng ký ở các ủy ban quân sự và lực lượng phòng vệ lãnh thổ.

Chúng ta đã không giương cờ trắng mà bắt đầu bảo vệ cờ xanh vàng. Chúng ta đã không sợ hãi, không gục ngã, không bỏ cuộc. Trở thành biểu tượng của điều này là những người lính biên phòng từ đảo Zmiinyi và tuyến đường mà họ đã chỉ cho "tàu chiến Nga".

Đức tin của chúng ta đã được củng cố. Tinh thần của chúng ta đã tăng cường. Chúng ta trụ vững qua ngày đầu tiên của cuộc chiến toàn diện. Chúng ta không biết ngày mai điều gì sẽ đến nhưng chúng ta biết chính xác rằng: chúng ta phải chiến đấu cho từng ngày mai!

Và chúng ta đã chiến đấu. Và chúng ta quyết liệt mỗi ngày. Và chúng ta trụ vững ngày thứ hai. Và sau đó – ngày thứ ba. Họ cho chúng tôi ba ngày để sống. Họ đe dọa rằng chúng ta sẽ không còn tồn tại trong 72 giờ. Nhưng chúng ta đã đứng vững vào ngày thứ tư. Và sau đó ngày thứ năm. Và hôm nay chúng ta đã đứng được tròn một năm. Và chúng ta vẫn biết: phải chiến đấu cho từng ngày mai!

Tôi cảm ơn tất cả những người mà nhờ các bạn cuộc kháng chiến của chúng ta đang tiếp tục. Đó là tất cả những nam nữ bảo vệ của chúng ta. Lực lượng vũ trang Ukraine. Lực lượng mặt đất, bộ binh và lính tăng của chúng ta. Không quân và Hải quân. Pháo binh, phòng không, lính dù, trinh sát, biên phòng. Lực lượng tác chiến đặc biệt, Cơ quan an ninh Ukraine, Vệ binh quốc gia, cảnh sát, lực lượng phòng vệ lãnh thổ – tất cả các lực lượng an ninh và quốc phòng của chúng ta. Nhờ có các bạn, Ukraine đứng vững. Và chúng ta đã vượt qua một tháng dữ dội và sự khởi đầu dữ dội của cuộc chiến.

Và sau đó là mùa xuân. Những cuộc tấn công mới, những vết thương mới, nỗi đau mới. Mọi người đều nhìn thấy nội tại thực sự của kẻ thù chúng ta. Pháo kích vào bệnh viện phụ sản, nhà hát kịch ở Mariupol, cơ quan quản lý nhà nước khu vực Mykolaiv, quảng trường Tự do ở Kharkiv và nhà ga ở Kramatorsk. Họ đã nhìn thấy Bucha, Irpin, Borodyanka. Cả thế giới đã hiểu rõ "thế giới Nga" thực sự có nghĩa là gì. Nga có khả năng làm gì?

Đồng thời, thế giới đã thấy khả năng của Ukraine. Đó là những anh hùng mới. Những người bảo vệ Kyiv, những người bảo vệ "Azovstal". Những chiến công mới được thực hiện bởi toàn bộ thành phố. Kharkiv, Chernihiv, Mariupol, Kherson, Mykolaiv, Hostomel, Volnovakha, Bucha, Irpin, Okhtyrka. Những thành phố anh hùng Thủ đô bất khuất. Những biểu tượng mới. Và cùng với đó là những đánh giá và dự báo mới về Ukraine.

Tháng đầu tiên của cuộc chiến. Và bước ngoặt đầu tiên của cuộc chiến. Những thay đổi đầu tiên trong nhận thức của thế giới về Ukraine. Đất nước đã không ngã gục trong ba ngày. Đất nước đã ngăn chặn quân đội xếp thứ hai của thế giới.

Chúng ta chịu đựng những trận đánh mới mỗi ngày, nhận biết những bi kịch mới mỗi ngày nhưng chúng ta đã trụ vững nhờ những người đã cống hiến hết mình mỗi ngày vì lợi ích của người khác.

Đó là những nhân viên y tế của chúng ta, những người cứu chữa binh lính bị thương ở tiền tuyến, thực hiện phẫu thuật dưới hỏa lực, tiếp nhận những ca sinh trong hầm trú bom và túc trực trong nhiều ngày và nhiều tuần. Giống như những người cứu hộ và lính cứu hỏa của chúng ta, những người kéo mọi người ra khỏi đống đổ nát và đám cháy 24/7. Và những công nhân đường sắt của chúng ta, những người đã không ngủ, không ngừng sơ tán hàng trăm ngàn người Ukraine kể từ khi bắt đầu chiến tranh.

Và sau đó là những cuộc tấn công đầu tiên, những thành tựu đầu tiên, những vùng lãnh thổ được giải phóng đầu tiên. Chornobayivka đầu tiên và không phải là cuối cùng. Trục xuất quân chiếm đóng khỏi khu vực Kyiv, Sumy và Chernihiv. "Stukna" của chúng ta. "Vilkha". Tàu tuần dương "Neptune" và tàu tuần dương "Moscow" đã chìm. Ramstein đầu tiên. Và lần thứ hai trong toàn bộ lịch sử của Lend-Lease.

Ukraine khiến cả thế giới kinh ngạc. Ukraine truyền cảm hứng cho thế giới. Ukraine thống nhất thế giới. Có ngàn từ đều chứng minh điều đó nhưng một vài từ là đủ. HIMARS, Patriot, Abrams, IRIS-T, Challenger, NASAMS, Leopard.

Tôi cảm ơn tất cả các đối tác, đồng minh và bạn bè đã sát cánh cùng chúng tôi trong suốt năm qua. Tôi rất vui vì liên minh quốc tế chống Putin đã phát triển đến mức cần có một địa chỉ riêng. Tôi sẽ làm cho nó sớm, nhất định.

Tôi cũng cảm ơn quân đội chính sách đối ngoại của chúng ta. Sư đoàn các nhà ngoại giao, đại sứ, đại diện của chúng ta tại các tổ chức và thể chế quốc tế. Tất cả những người đánh bại những kẻ chiếm đóng bằng lửa và gươm của luật pháp quốc tế, tìm kiếm các biện pháp trừng phạt mới, công nhận quốc gia khủng bố là một quốc gia khủng bố.

Chiến tranh đã thay đổi số phận của nhiều gia đình, đã viết lại những câu chuyện của các gia đình chúng ta. Thay đổi phong tục và truyền thống của chúng ta. Trước đây, những người ông đã kể cho cháu của họ cách họ đánh bại Đức quốc xã. Bây giờ các cháu kể cho ông của chúng nghe cách chúng đánh bại những kẻ phân biệt chủng tộc. Trước đây, bà và mẹ đan khăn quàng cổ, bây giờ họ dệt lưới ngụy trang. Trước đây, trẻ em từng xin ông già Noel điện thoại thông minh và các thiết bị nhưng bây giờ trẻ em xin tiền tiêu vặt và quyên tiền cho những người lính của chúng ta.

Trong năm, hầu như mọi người Ukraine đều mất một người nào đó. Cha, con trai, anh em trai, mẹ, con gái, chị em gái. Người yêu. Một người bạn thân, đồng nghiệp, hàng xóm, người quen. Xin gửi lời chia buồn của tôi.

Hầu hết mọi người đều có ít nhất một số liên lạc trong điện thoại sẽ không bao giờ nhấc máy nữa. Sẽ không trả lời tin nhắn "Bạn có khỏe không?". Những từ đơn giản này đã có một ý nghĩa mới trong năm chiến tranh. Mỗi ngày, hàng triệu người Ukraine đã viết hoặc hỏi câu này đối với người thân và bạn bè của họ hàng triệu lần. Ngày nào cũng có người không nhận được câu trả lời. Những kẻ chiếm đóng đã giết người thân và bạn bè của chúng ta mỗi ngày.

Chúng ta sẽ không xóa tên của họ khỏi điện thoại hoặc khỏi trí nhớ của chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ quên họ. Chúng ta sẽ không bao giờ tha thứ cho điều này. Chúng ta sẽ không bao giờ nghỉ ngơi cho đến khi những người Nga là kẻ giết người bị trừng phạt thích đáng. Sự trừng phạt của tòa án quốc tế, sự phán xét của Chúa trời, của những người lính của chúng ta hoặc của tất cả cùng lúc.

Phán quyết là hiển nhiên. Chín năm trước, người hàng xóm trở thành kẻ gây hấn. Một năm trước, kẻ xâm lược đã trở thành đao phủ, cướp bóc và khủng bố. Chúng ta không nghi ngờ gì về việc họ sẽ phải chịu trách nhiệm. Chúng ta không nghi ngờ gì về chiến thắng đang chờ đợi chúng ta.

Chúng ta đã cảm thấy điều này vào mùa hè. Chúng ta đã qua 100 ngày chiến tranh. Chúng ta đã nhận được tư cách ứng cử viên EU, đã lấy lại đảo Zmiinyi, nghe thấy tiếng "bông" đầu tiên ở Crimea, nhìn thấy pháo hoa tại các nhà kho của quân chiếm đóng và cầu Antonivskyi.

Tháng 8 là tháng đầu tiên quân xâm lược không chiếm được thành phố nào của Ukraine. Những đe dọa và tối hậu thư về phi quốc xã hóa đã được thay bằng những cử chỉ thiện chí. Và chúng ta cảm thấy khi đó: chiến thắng của chúng ta là không thể tránh khỏi. Chiến thắng đang ở gần. Chiến thắng sẽ đến.

Rồi mùa thu đến. Và các cuộc phản công của chúng ta. Giải phóng Izyum, Balakliya, Kupyansk, Lyman, vùng Kherson và thành phố Kherson. Chúng tôi đã thấy cách mọi người ở đó đón quân đội của chúng ta, cách họ bảo vệ lá cờ Ukraine, cách họ chờ đợi Ukraine.

Bây giờ tôi muốn nói với những người vẫn đang chờ đợi. Đối với công dân của chúng ta hiện đang ở vùng bị chiếm đóng tạm thời. Ukraine đã không rời xa bạn, không quên bạn, không từ bỏ bạn. Bằng cách này hay cách khác chúng ta sẽ giải phóng tất cả các vùng đất của chúng ta. Chúng tôi sẽ làm mọi thứ để Ukraine trở lại. Và với tất cả những người hiện đang bị buộc phải ở lại nước ngoài: chúng tôi sẽ làm mọi cách để các bạn trở về Ukraine, để điều này có thể.

Chúng tôi sẽ chiến đấu và mang trở lại từng người lính của chúng ta bị bắt giữ. Và chỉ điều này tất cả cùng nhau sẽ là một chiến thắng.

Chúng ta có thể nhìn thấy chiến thắng ngay cả trong bóng tối. Bất chấp các cuộc tấn công tên lửa lớn liên tục và mất điện. Chúng ta thấy ánh sáng của chiến thắng này.

Trong ký ức về những cảm xúc đầu tiên của ngày 24 tháng 2 năm 2022, người ta gọi là bàng hoàng, đau đớn, bấp bênh. Một năm sau cuộc xâm lược toàn diện, niềm tin chiến thắng là 95%. Cảm xúc chính mà chúng ta cảm thấy khi nghĩ về Ukraine là niềm tự hào.

Về mọi người đàn ông Ukraine, về mọi người phụ nữ Ukraine, họ là niềm tự hào của chúng ta. Chúng ta đã trở thành một đội quân lớn. Chúng ta đã trở thành một đội nơi ai đó tìm thấy, ai đó đóng gói, ai đó mang đến, nhưng mọi người đều đóng góp.

Tôi cảm ơn người dân của chúng ta, tôi cảm ơn đội quân nhiều triệu tình nguyện viên trị giá của chúng ta và những công dân luôn quan tâm, những người có thể thu thập và cung cấp mọi thứ chúng tôi cần.

Chúng ta đã hòa làm một khối thống nhất. Các nhà báo và phương tiện truyền thông của chúng ta đang chiến đấu chống lại những lời dối trá và hoảng loạn như một mặt trận thống nhất.

Chúng ta đã trở thành một gia đình. Không còn người xa lạ hay người lạ giữa chúng ta. Người Ukraine ngày nay đều là của Ukraine. Người Ukraine che chở cho người Ukraine, mở rộng cửa nhà và trái tim cho những người buộc phải chạy trốn chiến tranh.

Chúng ta đã vượt qua mọi mối đe dọa, pháo kích, bom chùm, tên lửa hành trình, máy bay không người lái kamikaze, mất điện, lạnh giá. Chúng ta mạnh mẽ hơn vì điều này.

Đó là một năm kiên cường, năm quan tâm, năm can đảm, năm đau thương, năm hy vọng, năm trụ vững, năm đoàn kết.

Năm bất khuất. Năm dữ dội của sự bất khuất.

Kết luận chính của năm là chúng ta đã trụ vững. Chúng ta không bị đánh bại. Và chúng ta sẽ làm mọi thứ để giành chiến thắng trong năm nay!

Vinh quang cho Ukraine!

Friday, 17 February 2023

Đặng Tiểu Bình trong cuộc chiến Việt Trung 1979

 Trong dịp thăm Mỹ đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình có bày tỏ ý định đánh Việt Nam khi phát biểu một cách trịch thượng: "Khi một đứa trẻ không biết nghe lời, đến lúc phải đánh đòn". (小朋友不听话,该打打屁股了).

Trước đó, trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học".
Câu "Việt Nam là côn đồ" được các đài truyền hình Trung Cộng phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó "Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói "bạo đồ" đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là "hooligan" – tức du côn, côn đồ."

Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu "lỗ mãng" đó?

Đảng CS Trung Quốc "hy sinh" quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Cộng (TC) không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu.

"Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của TC giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, TC gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân TC hiện diện".
Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo TC giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình. Trong số đó Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của TC dành cho đảng CSVN.

Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của TC nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người.
Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến.

Xung Đột Biên Giới Và Xô Đuổi Hoa Kiều

Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng TC, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Kampuchea và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm TC khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.

Đánh Việt Nam Để Củng Cố Quyền Lực

Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực.
Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng.
Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của TC trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.

Nỗi Lo Sợ Bị Bao Vây

Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ các lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm TC của họ Phạm vào năm 1968.
Chu Ân Lai: "Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam". Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: "Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam". Chu Ân Lai: "Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí". Phạm Văn Đồng phấn khởi: "Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy". Chu Ân Lai đồng ý: "Các đồng chí nghĩ thế là đúng ".
Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như "một đe dọa đối với hòa bình". Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.
Kampuchea, Giọt Nước Tràn Ly
Không những TC sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chặn khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ "Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á".
Họ Đặng kêu gọi đảng CS Kampuchea đoàn kết với TC trong việc ngăn chặn Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm TC của y vào tháng Ba, 1976.
Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Kampuchea đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN "một bài học". Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.

Quyết Định Của Đặng Tiểu Bình

Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẽ trong nội bộ Bộ Chính Trị đảng CSTQ, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.
Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công "trừng phạt" Việt Nam.
Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.
Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của TC vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.
Trong quan điểm của Đặng Tiểu Bình kẻ thù lớn nhất của TC là Liên Xô và do đó để ngăn chặn đà tiến của Liên Xô từ hướng nam, TC phải bắt tay với Mỹ tạm gác qua bên những bất đồng giữa hai nước về vấn đề Đài Loan.
Sau khi Chu Ân Lai qua đời, tháng Giêng 1976, trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của TC không có ai sở hữu nhiều kiến thức và kinh nghiệm quan hệ ngoại giao quốc tế bằng Đặng Tiểu Bình. Ngoại trưởng Hoàng Hoa, người có kiến thức chính trị quốc tế rộng rãi nhưng không đủ tầm vóc đảng để quyết định các chiến lược quan trọng. Chỉ trong một thời gian ngắn họ Đặng đã thăm viếng nhiều quốc gia hơn cả một phần đời ông ta trước đó.

Lên Đường Thuyết Khách Tìm Đồng Minh

Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của TC để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á.
Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978:
"Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc... mà là một âm mưu Xô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa."
Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.
Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao TC thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao.
Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với TC vào đầu năm Dương Lịch 1979.
Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán  khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xâm lăng Việt Nam.
Chính Thức Viếng Thăm Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Ông ta nghĩ rằng Mỹ và TC đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống  Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới.Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên.
Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết TC đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ.
Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoại trừ việc yêu cầu họ Đặng nên "tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn".
Trước khi TT Jimmy Carter và Phó Thủ tướng TC Đặng Tiểu Bình gặp nhau buổi sáng ngày 30 tháng 1, 1979, TT Carter yêu cầu thông dịch viên đọc trực tiếp bằng miệng lá thư của ông gởi với Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.
Bản viết tay của TT Carter vẫn còn được lưu giữ tại Thư Viện Jimmy Carter. Theo nội dung lá thư, TT Carter nghĩ rằng việc TC xâm lăng Việt Nam là một sai lầm nghiêm trọng vì nhiều lý do, trong đó có:
(1) Nếu mục đích của cuộc tấn công là nhằm gián đoạn hoạt động xâm lược của Việt Nam hiện nay ở Kampuchea thì mục đích đó sẽ khó thành công.
(2) Một hành động mang tính cách biểu hiện như thế sẽ không được xem là một "trừng phạt" đáng kể.
(3) Hành động xâm lăng sẽ làm vị trí của CSVN và TC hoán chuyển. CSVN hiện đang bị thế giới kết án xâm lược nhưng sẽ khác hơn dưới mắt dư luận nếu TC xâm lăng Việt Nam.
(4) Ngoài ra, xung đột từ hai quốc gia có nguy cơ trở thành xung đột khu vực. Kết luận, TT Carter đề nghị "một nỗ lực phối hợp thông qua Liên Hợp Quốc hoặc các diễn đàn quốc tế khác có thể gây tổn hại nhiều hơn cho Việt Nam và các đồng minh của họ."Đặng Tiểu Bình lắng nghe không ngắt lời người thông dịch.

Sau khi nghe xong, Đặng Tiểu Bình trả lời rằng TC vẫn sẽ "trừng phạt Việt Nam giới hạn" để ngăn chặn LX trong việc sử dụng Cuba, Việt Nam và rồi Afghanistan như những chư hầu. Nhưng để vớt vát, Đặng Tiểu Bình yêu cầu Mỹ viện trợ cho các lực lượng chống CSVN qua trung gian Thái Lan. TT Carter hỏi lại liệu Thái Lan có đồng ý không, Đặng Tiểu Bình trả lời Thái đã đồng ý.
Đặng Tiểu Bình thất bại trong mục đích được Mỹ công khai ủng hộ đánh CSVN nhưng thành công trong các mục đích nhỏ khác như được Mỹ hứa cung cấp tin tức tình báo và đóng góp cụ thể trong việc giúp phe chống CSVN tại Kampuchea .

Cáo già CS Đặng Tiểu Bình không đi Mỹ để đánh bạc theo kiểu được ăn cả ngã về không mà được phần nào cũng tốt. Mặc dù không ủng hộ Đặng Tiểu Bình, TT Jimmy Carter đã ủng hộ chính sách của Đặng tại Đông Nam Á.

Các nguồn viện trợ của Mỹ cho các thành phần không CS trong Chính Phủ Liên Hiệp Kampuchea Dân Chủ cũng lọt khá nhiều qua phía Khmer Đỏ. Mặc dù các nhà làm chính sách đối ngoại Mỹ như Cố vấn An ninh Quốc Gia Zbigniew Brzezinski có chối cãi hay biện hộ, một sự thật hiển nhiên là nếu không có sự ủng hộ của Mỹ, Chính Phủ Liên Hiệp Kampuchea Dân Chủ trong đó Khmer Đỏ đóng vai chính không thể giữ chiếc ghế tại Liên Hiệp Quốc cho tới 1993.

Những lời tố cáo Mỹ ủng hộ Pol Pot của Norodom Sihanouk cũng không phải là không căn cứ. Ngay trước khi Chính Phủ Liên Hiệp Kampuchea Dân Chủ ra đời 1982, thay vì vận động để bỏ trống ghế hội viên LHQ của Kampuchea cho tới khi có một chính phủ hợp luật quốc tế, Mỹ đã bỏ phiếu duy trì chiếc ghế của Pol Pot tại LHQ. Theo Washing Post, September 16, 1980: "Hoa Kỳ sẽ ủng hộ việc đưa chế độ "Kampuchea dân chủ" của Pol Pot vào Liên Hợp Quốc một lần nữa trong năm nay bất chấp hồ sơ đáng ghê tởm về nhân quyền, Ngoại trưởng Edmund S. Muskie tuyên bố hôm qua."

Họ Đặng dùng xung đột Kampuchea như bàn đạp cho các chính sách đối ngoại bành trướng tại Á Châu. Vai trò của TC có ảnh hưởng ngày càng mạnh đến cục diện Đông Nam Á từ đó đến nay.
TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch:"Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bầu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi [ qua trung gian của thông dịch viên] đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt."

Tổng thống Carter để lấy lòng "khách hàng khổng lồ" và "đồng minh chiến lược chống Liên Xô" đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979.
Chuyến viếng thăm Mỹ của họ Đặng là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án TC xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.

Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979, Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam.

Hai ngày trước khi tấn công Việt Nam, 15 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình gởi thư cám ơn đến TT Jimmy Carter nhưng đồng thời là một cách nhắc nhở với nội dung chính như sau: " Trong chuyến viếng thăm Washington, D.C., tôi đã trao đổi quan điểm với ngài về tình hình Đông Dương. Lúc đó, tôi đã đề cập với sự cân nhắc rằng chúng tôi không thể khoanh tay đứng nhìn đối với những kẻ xâm lược Việt Nam và chúng tôi phải dành cho chúng một bài học thích hợp. Tôi cũng đã lắng nghe kỹ các quan điểm mà Tổng thống đã nêu. Hiện nay tình hình ở biên giới Trung-Việt ngày càng xấu đi. Các hành động khiêu khích vũ trang của quân đội Việt Nam bên trong lãnh thổ Trung Quốc không ngừng leo thang. Chúng tôi buộc phải đưa ra quyết định tiến hành các hoạt động tự vệ cần thiết chống lại Việt Nam. Hoạt động này sẽ được hạn chế và giới hạn trong phạm vi. Những gì chúng tôi tìm kiếm là một biên giới yên tĩnh. Hoạt động này sẽ không ảnh hưởng đến tình hình chung. Nó có thể đóng một vai trò nhất định để kiểm soát tham vọng của Việt Nam và sẽ có lợi cho hòa bình và ổn định của khu vực này. Trước mối quan tâm chung của hai nước chúng ta trong khu vực, chúng tôi đặc biệt thông báo với Tổng thống về việc xem xét trên."

Sở dĩ họ Đặng nhấn mạnh nhiều lần với TT Jimmy Carter và ngay sau khi mở cuộc tấn công rằng cuộc tấn công CSVN sẽ được "hạn chế và giới hạn trong phạm" vì vì ông ta biết TC không đủ khả năng để chiến đấu trong một cuộc chiến kéo dài và không thể là đối thủ của cả Liên Xô và CSVN cùng một lúc.
Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.

Lãnh Đạo CSVN Ở Đâu Trong Ngày Quân TC Tràn Qua Biên Giới?

Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CSVN.
Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại "Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và TC từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [TC] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế."
Khi hàng trăm ngàn quân TC tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Kampuchea.
Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của TC và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân TC.
Tác giả Xiaoming Zhang viết trong biên khảo Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979: "Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng" và "Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin "nước xã hội chủ nghĩa anh em" có thể đánh họ.
Như lời kể của cựu dân quân Nguyễnn Duy Thục (hay Thức) cho phái viên Michael Sullivan của NPR (National Public Radio) Mỹ, 1 tháng 5, 2015: "Vào buổi sáng của cuộc tấn công, ngày 17 tháng 2, chúng tôi đang ngủ khi pháo binh Trung Quốc bắt đầu nổ, sau đó tất cả chúng tôi chạy đến vị trí của mình. Một số đã mặc quần áo, số khác thậm chí còn không kịp mặc quần vào, họ chỉ việc chạy về vị trí của mình để chiến đấu".
Bảo vệ biên giới Việt Trung dài gần 1300 cây số phần lớn là các lực lượng địa phương và 5 sư đoàn chủ lực (325, 332, 334, 337, 338, và 386). Chỉ 5 sư đoàn gồm 308, 320, 329, 386, và 431 bảo vệ Hà Nội. Khoảng 200,000 quân trong đó các đơn vị thiện chiến đang chiếm đóng Khampuchea.

 Ai Dạy Ai Bài Học?

Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội TC.
Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực TC.

Tác giả Xiaobing Li, dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đã mô tả quân TC chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.
Tiến sĩ Miles Maochun Yu, giáo sư về lịch sử hải quân và quân sự tại Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ mô tả "Nhiều chỉ huy quân đội TC không biết đọc bản đồ quân sự. Mặc dù hỏa lực và khả năng tấn công vượt trội của pháo binh TC, các chỉ huy cấp cao của TC không hiểu sao lại ưa thích cận chiến, vốn là thế mạnh vượt trội của Việt Nam, khiến nhiều binh sĩ TC thiệt mạng một cách tàn bạo và không cần thiết. Ngoài ra, trong suốt cuộc chiến, thông tin liên lạc chiến đấu của quân đội TC tỏ ra rất kém hiệu quả."
Thất bại quân sự của TC nhưng lại là chiến thắng chính trị của Đặng Tiểu Bình. Ông ta có lý do để áp đảo các thành phần cổ hủ trong bộ chính trị và thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa (Nông Nghiệp, Công Nghiệp, Quốc Phòng và Khoa Học Kỹ Thuật). Mặc dù Bốn Hiện Đại Hóa đã có từ năm 1963 và là sáng kiến của Chu Ân Lai nhưng bị gián đoạn trong thời kỳ "Cách Mạng Văn Hóa", Đặng Tiểu Bình tiếp tục và phát huy mạnh sau 1979.

Bài Học Lịch Sử Từ Chiến Tranh Biên Giới 1979
Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và "tình hữu nghị Việt Trung", nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn TC đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng TC đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. TC bằng mọi phương tiện buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào TC về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của TC và từng bước độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẵn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).

Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter "Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi".
Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông:
"Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chặn tấn công của Trung Quốc... Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á".
"Đông Nam Á" và "ngón tay" theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả. Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeleine Albright có câu nói rất hay "Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử."
Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế TC phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng.
Lịch sử đã chứng minh, TC giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.

Trần Trung Đạo
(Bài viết lần đầu năm 2014. Phần lý luận không thay đổi nhưng dữ kiện được bổ túc nhiều lần)

 

Friday, 10 February 2023

Đôi tất Ngoại

 Trong một bữa ăn tối với bè bạn, nhà văn Nga Anton Tchekhov nói:

"Các ông kêu viết văn khó ư? Không hề! Nếu có cái khó thì đó là khi ngồi trước trang giấy anh định viết cái gì, viết để làm gì? Tôi ấy à, tôi có thể viết ngay một truyện ngắn về lọ mực trên bàn kia, nếu tôi muốn. Vâng, về cái lọ mực ở trước mặt các vị kia kìa".

Tôi thuật lại không đúng câu chữ, nhưng tôi rất thú giai thoại ấy. Lọ mực, hay bất cứ vật nào khác, chẳng qua chỉ là cái cớ cho sự sáng tạo vốn nằm sẵn trong đầu nhà văn. Tchekhov viết dễ là vì ông có vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào.

Chuyện lọ mực của Tchekhov làm tôi nhớ tới những đồ vật tầm thường từng ở với tôi một thời gian rồi biệt tăm, nhưng kỷ niệm về chúng thì còn. Chúng nhắc ta nhớ đến một khúc nhôi nào đó trong đời.

Thí dụ, tôi có kỷ niệm về một đôi tất. Nó là vật tầm thường. Nhưng với tôi, nó nằm vào trí nhớ. Như một biểu tượng của một thời.

Đầu đuôi là thế này: Năm 1963, ngành đóng tàu Ba Lan cho hạ thuỷ một con tàu có độ dãn nước 15.000 tấn, tức một tàu chở hàng loại nhỏ có khả năng cập các bến cảng nông.

Không biết ông Gomulka, Tổng bí thư Đảng cộng sản Ba Lan hồi ấy, hay là ban giám đốc nhà máy đóng tàu ở thành phố Gdansk, đã nảy ra ý nghĩ đặt tên cho con tàu mới đóng là Hà Nội.

Sự kiện này lập tức được các báo lớn báo nhỏ của ta nhất tề cho chạy trên trang nhất, bằng chữ to với bức hình một cô gái Việt bé nhỏ mặc áo dài đập chai sâm banh vào mạn tàu trong nghi lễ xuống đà.

Báo ảnh Việt Nam, nơi tôi làm việc, không thể kém các đồng nghiệp. Nó là tờ báo duy nhất xuất bản bằng vài thứ tiếng nước ngoài, lại là tờ báo được nguyên tổng bí thư đảng khai sinh. Ông chú mục theo dõi nó ngay cả khi đã mất chức vì một tội ác chết nhiều người được gọi là một sai lầm.

Chủ nhiệm gọi tôi vào phòng. Ông trịnh trọng trao cho tôi làm phóng sự về sự kiện trọng đại này.

– Phải hết sức cẩn thận trong giao tiếp. "Tỏ tình thân, giữ khoảng cách" – ông nghiêm trang dặn tôi bằng một phương châm ngắn gọn kiểu Tàu – Liệu đấy, kẻo rắc rối.

Rắc rối nghĩa là thế nào thì chỉ người nào sống ở thời kỳ đó mới hiểu. Xểnh chân xểnh tay không sao, chứ xểnh miệng là lôi thôi lắm. Nhẹ thì phê bình kiểm thảo, hạ tầng công tác. Nặng, có thể đi tù.

Vào thời gian ấy, những năm 60 thế kỷ trước, nội bộ cái gọi là phe xã hội chủ nghĩa rất lủng củng. Trung Quốc xa xả chửi Liên Xô là "đồ xét lại", Liên Xô day tay mắm miệng nhiếc Trung Quốc là "lũ giáo điều". Trong từ vựng cộng sản, "giáo điều" và "xét lại" đều xấu đen xấu đủi, kiểu như hai bệnh tim la và lậu.

Vì cớ gì hai nước lớn bỗng đùng đùng ném cứt vào mặt nhau như thế thì chỉ có "trên", tức các vị cầm cân nảy mực trong đảng mới biết, chứ dân chúng thì mù tịt. Thậm chí cánh nhà báo cũng chỉ biết lơ tơ mơ rằng hai bên có mâu thuẫn chi đó về lý thuyết, chứ dưới tấm chăn lý thuyết ấy còn có cái gì nữa thì cũng chỉ là đoán mò. 

Chân lý được phát hành theo đại lý. Bộ Chính trị phổ biến tin tức có giới hạn cho Trung ương, Trung ương cắt bớt rồi phát xuống tỉnh, tỉnh cắt thêm rồi mới cho xuống huyện. Càng xuống thấp sự thật càng teo tóp. Những người thọc mạch nhất nếu có biết gì hơn khẩu phần tinh thần được phân phối cũng chỉ dám xì xào về một mảnh nào đó mà thôi. Chẳng ai dại mà đến gần đám cháy.

Ở Hải Phòng, Bùi Ngọc Tấn nghiêm trang dặn tôi:

– Này, ông nhớ là phải lấy giấy giới thiệu công tác của thành uỷ, của uỷ ban, của cả công an nữa. Cho nó chắc! Cảng là cảng, mà cũng là biên giới, lên tàu nước ngoài dễ rách việc lắm đấy.

Nhà văn thổ công đất cảng nổi tiếng là người siêu thận trọng. Anh rất biết cách né những gì nguy hiểm.

Cùng đi với tôi có Văn Sinh, phóng viên nhiếp ảnh. Tôi xin ông chủ nhiệm cho Văn Sinh đi cùng. Lên tàu Ba Lan, đồng nghĩa với bước chân vào lãnh thổ một nước xã hội chủ nghĩa nhưng là nước không được coi là "mác-xít-lê-nin-nít chân chính". Có Văn Sinh đi cùng, tôi yên tâm. Anh là nhân chứng có giá khi hữu sự. Xuất thân thợ ảnh phố huyện, là công nhân theo cách hiểu của các chính trị gia nội hoá, anh thuộc giai cấp lãnh đạo cách mạng. Ngoài chức phó bí thư chi bộ, phó chủ tịch công đoàn, anh còn là chiến sĩ thi đua toàn ngành văn hoá.

Đảng không tin anh còn tin ai?

Trời nắng như đổ lửa. Phố xá râm ran tiếng ve sầu.

Chúng tôi trình giấy tờ ở cổng cảng. Vào. Đi bộ một lát, thấy con tàu Hà Nội chình ình trước mặt. Bên trên, mấy thuỷ thủ cởi trần trùng trục, đỏ như tôm luộc, đi đi lại lại.

Đã tưởng qua cổng cảng rồi, trình giấy rồi, thì cứ thế lên tàu, hoá không phải. Ở bốt gác đặt ngay dưới cầu tàu, chúng tôi phải trình giấy lần nữa. Anh lính gác lật ngang lật dọc hai cái thẻ nhà báo và mấy tờ giấy giới thiệu rồi đủng đỉnh gõ kẻng. Đốc gác đủng đỉnh bước ra, cầm giấy mang đi.

Chúng tôi khô cong dưới trời nắng. Cuối cùng, sau một lúc lâu đốc gác mới xuất hiện, phẩy tay:

"Cho lên. Khi ra nhận lại giấy tờ".

Thuyền trưởng Kazimierz, ắt là một tên "xét lại" trăm phần trăm, vồn vã đón chúng tôi. Cao lộc ngộc, mặt tươi bưởi, sau cái bắt tay chặt, anh gọi nhà bếp mang vodka và cá khô vobla lên đãi. Cùng tiếp khách với thuyền trưởng còn có vài sĩ quan trên tàu.

Cuộc tiếp xúc xem ra không có mòi căng thẳng giữa hai bên xét lại và mác-xít lê-nin-nít chân chính. Văn Sinh lúc đầu còn nghiêm trang đúng cách, nhất nhất tuân theo lời cấp trên dặn dò, nhưng bia và vodka đã nhanh chóng xoá đi rào cản vô hình của cuộc đấu tranh một mất một còn giữa hai đường lối cộng sản.

Tối hôm ấy chúng tôi được một bữa thịnh soạn. Bữa này có đông đủ các sĩ quan, thuỷ thủ. Ngoài hai đứa tôi ra, khách lên tàu hôm ấy còn có các quan chức trung ương và địa phương.

Bếp trưởng tiếp khách bằng những món Ba Lan truyền thống. Trên bàn có đủ loại rượu không phải xã hội chủ nghĩa, chắc chắn được mua ở các cảng không xã hội chủ nghĩa.

Văn Sinh quên bẵng tinh thần cảnh giác. Đây là lần đầu tiên anh được dự một bữa ăn với người nước ngoài. Những buổi chiêu đãi quốc tế ở Hà Nội chỉ có các bậc chức sắc trong toà soạn đi dự, Văn Sinh không bao giờ có mặt. Anh thuộc loại người ra đời để được sai phái.

Sau vài ly vodka Văn Sinh đã chân nam đá chân chiêu, nhưng vẫn bấm máy liên tục. Anh không buồn theo dõi tôi theo nhiệm vụ được giao nữa. Anh lại không biết bất cứ thứ tiếng nào ngoài tiếng mẹ đẻ. Khi người ta uống rượu và cười nói ầm ầm thì chắc chắn không phải chuyện chính trị rồi. Anh chỉ nghe những lời chúc tụng ngoại giao qua lời tôi dịch. Rượu ngon, anh uống tì tì. Rốt cuộc, anh say đứ đừ. Anh ợ to, cười ngớ ngẩn, thiếu nước nôn oẹ ngay bàn tiệc, mấy thuyền viên phải xốc nách dìu anh đi nằm.

Tàn cuộc, thuyền phó Woicek kéo tôi về ca-bin của anh. Là người mê văn chương, tốt nghiệp đại học báo chí xong, Woicek thi tiếp vào đại học hàng hải để có cơ hội lang thang thế giới. Cả buổi tối và gần hết đêm chúng tôi say sưa nói chuyện với nhau về các văn gia Ba Lan mà tôi có đọc: Mickiewicz, Miloscz, Senkiewicz...

Tôi hỏi anh về đời sống của dân Ba Lan.

– Chúng ta cùng một lò – Woicek thở dài – Đâu thì cũng thế. Tuy nhiên, cuộc sống của dân Đông Âu xem ra dễ chịu hơn ở đây, ông bạn ạ!

– Âu và Á là hai thứ khác nhau. Rudyard Kipling nói thế. Và không sai.

– Nhưng cũng không hẳn đúng. Hai nước Âu Á của chúng ta ở vào thời không phải của Kipling. Chúng là con cùng một mẹ, chỉ khác nhau ở cấp độ – Vocicek phản bác – Chúng giống hệt nhau ở chỗ con người cả hai nơi đều không có quyền lựa chọn cách mình muốn sống.

– Đồng chí tinh thật, dù mới chỉ thấy Hải Phòng.

– Hải Phòng không giống bến cảng – anh kết luận – Nó giống nhà trừng giới. Dân ở đây lảng tránh chúng tôi. Tôi hiểu: họ không được phép tiếp xúc với người nước ngoài. Nhưng việc gì họ phải sợ chúng tôi đến thế?

Dân chúng thực hiện nghiêm chỉnh mệnh lệnh của ông thủ tướng vĩnh cửu: tuyệt đối cấm  giao thiệp với người nước ngoài. Ông không ra văn bản chính thức, nó bất tiện, mà bằng chỉ thị miệng, được các cấp dưới phổ biến cho nhau.

Chúng tôi trò chuyện tới gần sáng.

Lúc chia tay Woicek mở tủ bắt tôi lấy bằng được một thứ gì đó của anh làm kỷ niệm, dù tôi khăng khăng từ chối.

Chiều lòng anh, tôi chọn đôi tất. Tôi không thể mang ra khỏi tàu bất cứ vật gì khác cái tôi có. Nếu tôi bị phát hiện mang vật gì không phải của tôi ra khỏi đây thì phiền lắm lắm. Nhẹ thì bị buộc tội buôn lậu, nặng thì... có trời biết sẽ là cái gì – tội liên hệ với gián điệp của bọn xét lại cũng nên.

Các bạn đừng cười nhé. Thật thế, tôi không phóng đại.

Để cẩn thận, tôi đi đôi tất mới ra ngoài đôi đang dùng, nhưng đi cả hai vào giày thì chật. Đành tháo đôi cũ ra, quẳng nó qua cửa húp-lô xuống cửa sông Đông Đình Vũ. Quẳng đi tôi tiếc hùi hụi – đôi tất mới nguyên, sản phẩm của nhà máy dệt kim Đông Xuân tôi vừa mua được trong lần bắt thăm hàng phân phối ở cơ quan.

Tôi quên chưa tả đôi tất Woicek cho. Nó là sự hoà trộn tuyệt vời những đường nét mang hai màu đen và xanh lam, rất trang nhã.

Vợ tôi thích đôi tất ấy lắm. Nó không những đẹp mà còn bền. Những đêm đông có nó đi vào chân thật tuyệt. Đến khi mậu dịch có bán giày da Mông Cổ, tôi mua được một đôi, vợ tôi không cho tôi dùng thường xuyên đôi tất tư bản, sợ nó rách.

Tôi bị bắt cóc giữa đường để tống vào tù vào một buổi sáng mùa đông năm 1967. Trời hôm ấy rét ngọt. May, trên người có áo bông, dưới chân có đôi tất Woicek cho.

Ở Hoả Lò, trước khi đưa tôi vào xà lim, người ta khám xét rất kỹ: bắt tôi cởi trần truồng, bắt há mồm, chổng mông, nhòm vào mọi chỗ, cả đôi tất cũng phải lột ra để họ nắn xem bên trong có gì.

Viên cán bộ chấp pháp, một người đàn ông gày còm trong bộ nỉ Tôn Trung Sơn đã sờn ở cổ và tay áo chỉ sực nhớ đến đôi tất lạ mắt nhiều ngày sau.

Một hôm, khi được mở cửa xà lim ra cái sân bé tí tẹo lấy quần áo phơi, tôi thấy mất đôi tất. Hỏi thì viên quản giáo trông khu Xà lim Một, tức Xà lim Án Chém, nơi tôi cư ngụ, nói:

– Không mất đâu mà sợ!

Mất là không thấy nó nữa, nhưng sợ thì không sợ. Cái thân mình còn chẳng giữ được, nữa là đồ vật.

Hai hôm sau, người ta áp giải tôi ra "đi cung", tôi thấy đôi tất nằm chình ình trên bàn.

Sau các câu hỏi bao giờ cũng vô duyên, cũng lãng xẹt, viên chấp pháp chỉ đôi tất:

– Tất ni là của anh, hỉ?

– Vâng, của tôi. Tôi nghĩ nó đã mất.

– Không, nó đây.

Thì ra viên chấp pháp sực nhớ ra thứ y đã không chú ý đến là đôi tất trong khi khám xét.

– Anh mua cấy ni ở mô hè?

– Tôi không nhớ cửa hàng – tôi thản nhiên – Cũng chẳng bao giờ nhớ mình mua cái gì ở đâu.

Viên chấp pháp nhấc đôi tất lên, chăm chú ngắm nghía. Y cận thị, phải đưa nó vào sát mặt để nhìn ngó, tôi nghĩ y muốn ngửi nó.

– Đôi tất đẹp thiệt, tui chưa thấy một đôi như rứa bao giờ. 

– Tôi cũng ưng cái cách phối màu – tôi nói – Tươi, mà không sặc sỡ.

– Tui không hỏi anh nó đẹp hay không đẹp – y đổi giọng – Tui là tui muốn hỏi anh mua cấy ni ở mô?

– Tôi đã nói là tôi không nhớ các cửa hàng mà. Nhất là ở chợ trời. Có cửa hàng mậu dịch nào bán của này? – tôi hiểu y muốn dẫn câu chuyện tới đâu – Tất không phải hàng bán theo phiếu, mà phân phối cho các cơ quan. Còn phải bắt thăm nữa đấy.

– Dzậy tui mới hỏi. Tui cũng như anh, tôi biết thứ nào bán theo tem, thứ nào bán phân phối – y ngó chòng chọc vào mắt tôi – Tui ngờ cấy ni là quà của bọn xét lại Liên Xô tặng anh...

Tôi bật cười:

– Bọn xét lại Liên Xô có tặng tôi thì cũng phải tặng cái gì cho ra hồn chứ. Ai lại tặng một đôi tất? Mà tôi đã ở Liên Xô, tất bên ấy tốt, rất bền, nhưng cách phối màu thì dở, không được như thế này đâu.

– Chừ tui mới nghe một câu chê Liên Xô từ miệng anh đó.

Vào thời gian đó, nếu muốn đổ cho ai một cái tội gì đó thì tội xét lại là hợp mốt nhất. Trong cơn cuồng mác xít theo đàn anh Trung Quốc, người ta bỏ tù cả một anh chàng sinh viên du học Ukraina vì dám yêu gái bản địa, một anh cán bộ ngoại giao dám chè chén ở nhà một nhân viên lãnh sự quán Ai Cập. Trong sự phô trương tinh thần bảo hoàng hơn vua, chính quyền các địa phương bủa lưới hốt cả những công dân vô tội. Nhiều người trong số này rồi nằm lại  trong bãi tha ma bên cạnh trại tù.

Cổ nhân nói: một mất mười ngờ. Nhưng với nhà cầm quyền thì không thế. Họ chẳng mất gì để mà ngờ, hoặc nói cho khách quan, họ chưa mất gì, nhưng ngờ thì vẫn cứ ngờ. Trong sự ngờ vực này, thói suy diễn được chạy lông nhông.

Khi không thể nặn ra được lời thú nhận nào ở tôi, viên chấp pháp mẫn cán đánh trống lảng bằng câu chuyện vui, rằng có tên gián điệp bị bắt vì mang một cái ví da không giống các thứ ví xã hội chủ nghĩa. Cái ví là ám hiệu để nhận nhau với một tên gián điệp khác trong một đường dây.

– Nhưng che mắt ai, chớ không thể che mắt công an Việt Nam ngàn mắt ngàn tay – y cười hích hích – Bọn ấy rồi bị bắt hớt, không sót đứa mô.

Tôi hiểu y ám chỉ gì. Y đã có tuổi, dù chưa già, nhưng vẫn giữ được những nét trẻ thơ. Mà anh ta đúng, ngành công an tự ví mình với đức Phật thông tuệ nghìn mắt nghìn tay, không bỏ sót một chi tiết nào.

– Ờ, thí dụ như cái đôi tất có màu lạ này, nó cũng có thể dùng làm ám hiệu đấy nhỉ? – tôi nói vui – Tôi dùng nó thường, chẳng có đứa nào ngó vào chân để nhận tôi.

– Là tui nói dzậy thôi. Cho anh cầm về. 

Y đứng lên, chán ngán. Công việc mà y hình dung không diễn ra như y muốn. Dù sao thì cũng hết một buổi "làm việc".

Đôi tất ở với tôi suốt mùa đông lạnh giá năm 1967. Những mùa đông sau tôi ít dám dùng, vì sợ nó rách.

Vào năm tù thứ 8, vợ tôi mang lên trại Phong Quang một đôi giày vải. Đôi giày da tôi đã "chác" (đổi chác) cho một anh tù được tha lấy đôi dép lốp.

Nhìn đôi chân nứt nẻ của ông bạn tù, người được mệnh danh là "Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ" vì thành tích ở liền tù tì trong các nhà tù 30 năm, tôi biếu ông đôi giày vải. Nhân tiện, tôi biếu ông luôn đôi tất. Ông nhận giày, nhưng không nhận tất:

– Ông đã nhường giày cho tôi, tất thì giữ lấy tất mà dùng, phòng khi trời quá lạnh.

Muà đông năm ấy lạnh lắm, lạnh đến nỗi có hai người tù chết cóng, cán bộ vào thúc đi làm, đá cho mấy đá cũng không dậy, hoá ra hai anh này đã về với ông bà ông vải rồi.

Vậy mà "Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ" vẫn không chịu đi giày, chỉ quấn xà-cạp chế tạo từ cái quần rách. Trách ông thì ông bảo:

– Để đến mùa đông nào khác, khi sức tôi không còn chịu được nữa thì tôi sẽ dùng. Mình án cao su, anh ơi. Biết bao giờ ra khỏi đây mà phí phạm!

Tôi ra tù một năm sau đó. "Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ" vẫn còn đó. Không biết rồi khi nào ông mới chịu dùng đôi giày vải nọ.

Đôi tất tôi mang về nhà.

Vợ tôi trổ tài khâu vá, mạng lại những chỗ rách, nhưng nó đã quá cũ, nhiều chỗ đã mủn, sau khi làm xong thì nó bé hẳn lại, chỉ vừa chân vợ tôi thôi. Khi trời quá lạnh vợ tôi nhường cho con gái út. Nó đi hơi rộng, nhưng có còn hơn không.

Đôi tất ở trong nhà tôi nhiều năm.

Chuyện đôi tất đến đây là hết.

Ký ức về nó thì còn.

Kể lại câu chuyện vui vui này để các bạn cười thêm một tiếng.

 Vũ Thư Hiên