Trong dịp thăm Mỹ đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình có bày tỏ ý định đánh Việt Nam khi phát biểu một cách trịch thượng: "Khi một đứa trẻ không biết nghe lời, đến lúc phải đánh đòn". (小朋友不听话,该打打屁股了).
Trước đó, trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư
luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố "Việt Nam là
côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học".
Câu "Việt Nam là côn đồ" được các đài truyền hình
Trung Cộng phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam
tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó "Tôi không bao giờ
có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói "bạo đồ" đầy giọng tức tối của
ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là
"hooligan" – tức du côn, côn đồ."
Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu
"lỗ mãng" đó?
Đảng CS Trung Quốc "hy
sinh" quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn
Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Cộng (TC) không
chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu.
"Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung
Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không
(SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội
Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM,
xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của
TC giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam
đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, TC gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95
trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000
quân TC hiện diện".
Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo TC giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc
Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình. Trong số
đó Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn
ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng
người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của TC dành
cho đảng CSVN.
Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng
gạo trắng của TC nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu
Bình chết đói trên 10 triệu người.
Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền
CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh
nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng
Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến.
Xung Đột Biên Giới Và Xô Đuổi Hoa
Kiều
Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng TC, các
đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước
đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978.
Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không
phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy
giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch
Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa
quân sang Kampuchea và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị
đánh Việt Nam từ Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978
cũng làm TC khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.
Đánh Việt Nam Để Củng Cố Quyền Lực
Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót
vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Phó
Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải
Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc
tóm thu quyền lực.
Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị
khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ
Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh
quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng.
Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt
sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978
cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa
kinh tế được đề xuất như chiến lược của TC trong thời kỳ mới. Trong nội dung
chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến
để phục vụ các hiện đại hóa.
Nỗi Lo Sợ Bị Bao Vây
Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không
phải phát ra từ các lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài
học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường
xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách
đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó. Cựu
Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) đã
trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng
thăm TC của họ Phạm vào năm 1968.
Chu Ân Lai:
"Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao
vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam". Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp
lại: "Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên
lãnh thổ Việt Nam". Chu Ân Lai: "Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ
các đồng chí". Phạm Văn Đồng phấn khởi: "Chiến thắng của chúng tôi sẽ
có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng
thấy". Chu Ân Lai đồng ý: "Các đồng chí nghĩ thế là đúng ".
Chính sách của Đặng
Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng
của Liên Xô được xem như "một đe dọa đối với hòa bình". Khi Việt Nam
rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3
tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng
không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.
Kampuchea, Giọt Nước Tràn Ly
Không những TC sợ
bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt
Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chặn khối Việt Miên Lào liên minh
nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu
Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ "Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi,
một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của
chúng đến Đông Nam Á".
Họ Đặng kêu gọi
đảng CS Kampuchea đoàn kết với TC trong việc ngăn chặn Việt Nam bành trướng.
Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng
bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm TC của y vào tháng
Ba, 1976.
Tháng Sáu, 1978,
Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước
Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô. Tháng 12
năm 1978, Việt Nam xâm lăng Kampuchea đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và
thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước
tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc
CSVN "một bài học". Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc
thủng vòng vây.
Quyết Định Của Đặng Tiểu Bình
Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc
dầu có sự chia rẽ trong nội bộ Bộ Chính Trị đảng CSTQ, quyết định tối hậu trong
việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.
Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị
thông qua kế hoạch tấn công "trừng phạt" Việt Nam.
Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào
Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối
trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ Mengla và Vân Nam qua
đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu
Bình cử tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc
Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.
Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như
Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế
và quân sự còn rất yếu của TC vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô
cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối
ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất
là Mỹ.
Trong quan điểm của Đặng Tiểu Bình kẻ thù lớn nhất của TC là Liên Xô và do đó
để ngăn chặn đà tiến của Liên Xô từ hướng nam, TC phải bắt tay với Mỹ tạm gác
qua bên những bất đồng giữa hai nước về vấn đề Đài Loan.
Sau khi Chu Ân Lai qua đời, tháng Giêng 1976, trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của
TC không có ai sở hữu nhiều kiến thức và kinh nghiệm quan hệ ngoại giao quốc tế
bằng Đặng Tiểu Bình. Ngoại trưởng Hoàng Hoa, người có kiến thức chính trị quốc
tế rộng rãi nhưng không đủ tầm vóc đảng để quyết định các chiến lược quan
trọng. Chỉ trong một thời gian ngắn họ Đặng đã thăm viếng nhiều quốc gia hơn cả
một phần đời ông ta trước đó.
Lên Đường Thuyết Khách Tìm Đồng Minh
Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74
tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo
tối cao của TC để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.
Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai,
Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa
ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn
định Đông Nam Á.
Đặng Tiểu Bình phát
biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978:
"Hiệp ước
[Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc... mà là một âm mưu Xô Viết
tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã
trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây.
Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh
và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa."
Ngoại trừ
Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN
lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.
Trong các chuyến
công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong
phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng
Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao TC thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường
hóa ngoại giao.
Đầu tháng 12, Đặng
báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu
rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với TC vào đầu năm Dương Lịch 1979.
Chính bản thân Đặng
đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ
tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán,
Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài
Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng
giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xâm lăng Việt Nam.
Chính Thức Viếng Thăm Hoa Kỳ
Ngày 28 tháng Giêng
1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Ông ta nghĩ rằng Mỹ và
TC đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn
cầu nhưng không chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam
sắp tới.Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba
lần. Chỉ vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp
riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ
Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên.
Chiều ngày 29 tháng
Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao
Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có
Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc
Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết TC đã
quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và
cần sự ủng hộ của Mỹ.
Trái với mong muốn
của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoại trừ việc yêu cầu họ Đặng
nên "tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn".
Trước khi TT Jimmy
Carter và Phó Thủ tướng TC Đặng Tiểu Bình gặp nhau buổi sáng ngày 30 tháng 1,
1979, TT Carter yêu cầu thông dịch viên đọc trực tiếp bằng miệng lá thư của ông
gởi với Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình.
Bản viết tay của TT
Carter vẫn còn được lưu giữ tại Thư Viện Jimmy Carter. Theo nội dung lá thư, TT
Carter nghĩ rằng việc TC xâm lăng Việt Nam là một sai lầm nghiêm trọng vì nhiều
lý do, trong đó có:
(1) Nếu mục đích
của cuộc tấn công là nhằm gián đoạn hoạt động xâm lược của Việt Nam hiện nay
ở Kampuchea thì mục đích đó sẽ khó thành công.
(2) Một hành động
mang tính cách biểu hiện như thế sẽ không được xem là một "trừng
phạt" đáng kể.
(3) Hành động xâm
lăng sẽ làm vị trí của CSVN và TC hoán chuyển. CSVN hiện đang bị thế giới kết
án xâm lược nhưng sẽ khác hơn dưới mắt dư luận nếu TC xâm lăng Việt Nam.
(4) Ngoài ra, xung
đột từ hai quốc gia có nguy cơ trở thành xung đột khu vực. Kết luận, TT Carter
đề nghị "một nỗ lực phối hợp thông qua Liên Hợp Quốc hoặc các diễn đàn
quốc tế khác có thể gây tổn hại nhiều hơn cho Việt Nam và các đồng minh của
họ."Đặng Tiểu Bình lắng nghe không ngắt
lời người thông dịch.
Sau khi nghe xong,
Đặng Tiểu Bình trả lời rằng TC vẫn sẽ "trừng phạt Việt Nam giới hạn" để
ngăn chặn LX trong việc sử dụng Cuba, Việt Nam và rồi Afghanistan như những chư
hầu. Nhưng để vớt vát, Đặng Tiểu Bình yêu cầu Mỹ viện trợ cho các lực lượng
chống CSVN qua trung gian Thái Lan. TT Carter hỏi lại liệu Thái Lan có đồng ý
không, Đặng Tiểu Bình trả lời Thái đã đồng ý.
Đặng Tiểu Bình thất
bại trong mục đích được Mỹ công khai ủng hộ đánh CSVN nhưng thành công trong
các mục đích nhỏ khác như được Mỹ hứa cung cấp tin tức tình báo và đóng góp cụ
thể trong việc giúp phe chống CSVN tại Kampuchea .
Cáo già CS Đặng Tiểu Bình không đi Mỹ
để đánh bạc theo kiểu được ăn cả ngã về không mà được phần nào cũng tốt. Mặc dù
không ủng hộ Đặng Tiểu Bình, TT Jimmy Carter đã ủng hộ chính sách của Đặng tại
Đông Nam Á.
Các nguồn viện trợ của Mỹ cho các
thành phần không CS trong Chính Phủ Liên Hiệp Kampuchea Dân Chủ cũng lọt khá
nhiều qua phía Khmer Đỏ. Mặc dù các nhà làm chính sách đối ngoại Mỹ như Cố vấn
An ninh Quốc Gia Zbigniew Brzezinski có chối cãi hay biện hộ, một sự thật hiển
nhiên là nếu không có sự ủng hộ của Mỹ, Chính Phủ Liên Hiệp Kampuchea Dân Chủ
trong đó Khmer Đỏ đóng vai chính không thể giữ chiếc ghế tại Liên Hiệp Quốc cho
tới 1993.
Những lời tố cáo Mỹ ủng hộ Pol Pot
của Norodom Sihanouk cũng không phải là không căn cứ. Ngay trước khi Chính Phủ
Liên Hiệp Kampuchea Dân Chủ ra đời 1982, thay vì vận động để bỏ trống ghế hội
viên LHQ của Kampuchea cho tới khi có một chính phủ hợp luật quốc tế, Mỹ đã bỏ
phiếu duy trì chiếc ghế của Pol Pot tại LHQ. Theo Washing Post, September 16,
1980: "Hoa Kỳ sẽ ủng hộ việc đưa chế độ "Kampuchea dân chủ" của
Pol Pot vào Liên Hợp Quốc một lần nữa trong năm nay bất chấp hồ sơ đáng ghê tởm
về nhân quyền, Ngoại trưởng Edmund S. Muskie tuyên bố hôm qua."
Họ Đặng dùng xung đột Kampuchea như
bàn đạp cho các chính sách đối ngoại bành trướng tại Á Châu. Vai trò của TC có
ảnh hưởng ngày càng mạnh đến cục diện Đông Nam Á từ đó đến nay.
TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A
President, Ngô Bắc dịch:"Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội
kiến tại Văn Phòng Bầu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi [ qua
trung gian của thông dịch viên] đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết
tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc
vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ
triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của
một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn
khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn,
quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn
còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy.
Việt Nam sẽ bị trừng phạt."
Tổng thống Carter để lấy lòng
"khách hàng khổng lồ" và "đồng minh chiến lược chống Liên
Xô" đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô
trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận
đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền
thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979.
Chuyến viếng thăm Mỹ của họ Đặng là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng
chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án TC xâm lược Việt Nam. Trên đường về
nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.
Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh,
ngày 11 tháng 2, 1979, Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và
giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam.
Hai ngày trước khi tấn công Việt Nam,
15 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình gởi thư cám ơn đến TT Jimmy Carter nhưng đồng
thời là một cách nhắc nhở với nội dung chính như sau: " Trong chuyến viếng
thăm Washington, D.C., tôi đã trao đổi quan điểm với ngài về tình hình Đông
Dương. Lúc đó, tôi đã đề cập với sự cân nhắc rằng chúng tôi không thể khoanh
tay đứng nhìn đối với những kẻ xâm lược Việt Nam và chúng tôi phải dành cho
chúng một bài học thích hợp. Tôi cũng đã lắng nghe kỹ các quan điểm mà Tổng
thống đã nêu. Hiện nay tình hình ở biên giới Trung-Việt ngày càng xấu đi. Các
hành động khiêu khích vũ trang của quân đội Việt Nam bên trong lãnh thổ Trung
Quốc không ngừng leo thang. Chúng tôi buộc phải đưa ra quyết định tiến hành các
hoạt động tự vệ cần thiết chống lại Việt Nam. Hoạt động này sẽ được hạn chế và
giới hạn trong phạm vi. Những gì chúng tôi tìm kiếm là một biên giới yên tĩnh.
Hoạt động này sẽ không ảnh hưởng đến tình hình chung. Nó có thể đóng một vai
trò nhất định để kiểm soát tham vọng của Việt Nam và sẽ có lợi cho hòa bình và
ổn định của khu vực này. Trước mối quan tâm chung của hai nước chúng ta trong
khu vực, chúng tôi đặc biệt thông báo với Tổng thống về việc xem xét
trên."
Sở dĩ họ Đặng nhấn mạnh nhiều lần với
TT Jimmy Carter và ngay sau khi mở cuộc tấn công rằng cuộc tấn công CSVN sẽ
được "hạn chế và giới hạn trong phạm" vì vì ông ta biết TC không đủ
khả năng để chiến đấu trong một cuộc chiến kéo dài và không thể là đối thủ của
cả Liên Xô và CSVN cùng một lúc.
Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân,
tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.
Lãnh Đạo CSVN Ở Đâu Trong Ngày Quân
TC Tràn Qua Biên Giới?
Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một
cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh
đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có
giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CSVN.
Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại "Trong tận đáy
lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và TC từng
quá gần gũi và hữu nghị, họ [TC] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá
nhanh và quá mạnh như thế."
Khi hàng trăm ngàn quân TC tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và
Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Kampuchea.
Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của TC và cũng không
xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân TC.
Tác giả Xiaoming Zhang viết trong biên khảo Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt
1979: "Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc
xâm lăng" và "Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu
hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin "nước xã hội chủ
nghĩa anh em" có thể đánh họ.
Như lời kể của cựu dân quân Nguyễnn Duy Thục (hay Thức) cho phái viên Michael
Sullivan của NPR (National Public Radio) Mỹ, 1 tháng 5, 2015: "Vào buổi
sáng của cuộc tấn công, ngày 17 tháng 2, chúng tôi đang ngủ khi pháo binh Trung
Quốc bắt đầu nổ, sau đó tất cả chúng tôi chạy đến vị trí của mình. Một số đã
mặc quần áo, số khác thậm chí còn không kịp mặc quần vào, họ chỉ việc chạy về
vị trí của mình để chiến đấu".
Bảo vệ biên giới Việt Trung dài gần 1300 cây số phần lớn là các lực lượng địa
phương và 5 sư đoàn chủ lực (325, 332, 334, 337, 338, và 386). Chỉ 5 sư đoàn
gồm 308, 320, 329, 386, và 431 bảo vệ Hà Nội. Khoảng 200,000 quân trong đó các
đơn vị thiện chiến đang chiếm đóng Khampuchea.
Ai Dạy Ai Bài Học?
Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân
tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến
của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội TC.
Tạp chí Time tổng
kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và
khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam
vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực TC.
Tác giả Xiaobing Li, dựa theo khảo cứu A History of the Modern
Chinese Army đã mô tả quân TC chiến đấu tệ hại hơn cả trong
chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.
Tiến sĩ Miles
Maochun Yu, giáo sư về lịch sử hải quân và quân sự tại Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ
mô tả "Nhiều chỉ huy quân đội TC không biết đọc bản đồ quân sự. Mặc dù hỏa
lực và khả năng tấn công vượt trội của pháo binh TC, các chỉ huy cấp cao của TC
không hiểu sao lại ưa thích cận chiến, vốn là thế mạnh vượt trội của Việt Nam,
khiến nhiều binh sĩ TC thiệt mạng một cách tàn bạo và không cần thiết. Ngoài
ra, trong suốt cuộc chiến, thông tin liên lạc chiến đấu của quân đội TC tỏ ra
rất kém hiệu quả."
Thất bại quân sự
của TC nhưng lại là chiến thắng chính trị của Đặng Tiểu Bình. Ông ta có lý do
để áp đảo các thành phần cổ hủ trong bộ chính trị và thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa
(Nông Nghiệp, Công Nghiệp, Quốc Phòng và Khoa Học Kỹ Thuật). Mặc dù Bốn Hiện
Đại Hóa đã có từ năm 1963 và là sáng kiến của Chu Ân Lai nhưng bị gián đoạn
trong thời kỳ "Cách Mạng Văn Hóa", Đặng Tiểu Bình tiếp tục và phát
huy mạnh sau 1979.
Bài Học Lịch Sử Từ Chiến Tranh Biên
Giới 1979
Nếu ngày đó giới
lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và "tình
hữu nghị Việt Trung", nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng
Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại
hai sư đoàn TC đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.
Từ đó đến nay, khi
đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành
trướng TC đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô
1990 vẫn không thay đổi. TC bằng mọi phương tiện buộc Việt Nam hoàn toàn lệ
thuộc vào TC về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ
chiến lược an ninh châu Á của TC và từng bước độc chiếm toàn bộ các quyền lợi
kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang
tranh chấp.
Đặng Tiểu Bình
trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẵn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để
thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế
giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).
Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý
định này với Tổng thống Jimmy Carter "Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay
tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi".
Đặng Tiểu Bình muốn
liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu
Á. Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng
trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông:
"Những gì Đặng
Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ
thuyết quân sự ngăn chặn tấn công của Trung Quốc... Nếu cần thiết, Trung Quốc
sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô,
đặc biệt tại vùng Đông Nam Á".
"Đông Nam
Á" và "ngón tay" theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên
kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường
rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có
tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả. Cựu Ngoại trưởng Mỹ
bà Madeleine Albright có câu nói rất hay "Lịch sử chưa bao giờ lập lại một
cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch
sử."
Với Chiến Tranh
Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế TC phát triển nhưng không
lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu
Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.
Việt Nam, quốc gia
vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa
sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá
nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt
quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh
dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh
thần bạc nhược, đầu hàng.
Lịch sử đã chứng
minh, TC giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn
nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản
thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ
con cháu mai sau.
Trần Trung Đạo
(Bài viết lần đầu
năm 2014. Phần lý luận không thay đổi nhưng dữ kiện được bổ túc nhiều lần)
No comments:
Post a Comment