Thực vậy, chẳng
ai muốn đọc, một chuyện mà tất cả mọi người khi cuối đời, đều đến đây để được
thần chết đưa đi, đó là phòng đợi tử thần (Hospice). Con người khi đi đến nơi
cuối cùng của kiếp sống, người Nhật gọi là điểm khởi hành (Departure), Người
Tây phương gọi là đời mới (New life), và người mình gọi là dứt nợ trần ai hay
Chết. Thực ra đi tới cái chết là hết, nhưng thật không dễ gì để được chết êm
thắm, nhắm mắt lìa đời như một giấc ngủ là ít người có được.
Tôi muốn kể lại
một số điều không muốn kể, tôi đã chứng kiến cảnh một số người sắp chết, dĩ
nhiên là tôi đã an ủi người ta một cách dối trá, nói là anh không chết đâu anh,
nhưng thực ra tôi biết thừa rằng, có thể tôi chỉ quay đi, người bạn tôi sẽ
chết, nhưng ngay lúc đó, tôi không nói được.
Những ngày còn
trận mạc, tôi rất quan tâm đến cái chết của con người, tôi thường hỏi bác Diễn
tôi, một nhà tướng số thần tài, là làm sao biết được một người sắp chết, bác
tôi nói dễ lắm, cứ nhìn mặt người nào bóng nhẫy, da mặt căng như được bàn ủi ủi
và tóc tai cứ dựng ngược lên trời, là biết người đó sắp chết.
Trước những cuộc
hành quân, tại tuyến xuất phát, tôi tập họp anh em, chuyện trò với họ, cố xem
tướng mạo như bác tôi nói, anh nào, lát nữa đây đụng trận sẽ chết. Nhưng
khốn nỗi, Trời nắng chang chang, mặt anh lính nào cũng căng nhẫy, đỏ gay, mồ
hôi nhễ nhại. Đầu thì đội nón sắt có lưới, tôi không cách gì coi cái tóc cái
tai, để biết anh nào tóc dựng, anh nào tóc nằm, mà đoán xem họ sẽ sống hay chết
sau cuộc hành quân này. Tôi bèn đổi cách, bắt chuyện, tìm hỏi xem, cách thức họ
nói năng có lộ ra điều gì làm tôi suy nghĩ là anh này nói gở, sẽ gặp nạn hay
không. Tuyệt nhiên - Tôi không tìm thấy điều gì ở những người lính sống chết
cùng tôi, thân yêu như anh em, gia đình - có điềm nhìn thấy là sẽ chết. Chỉ sau
khi chạm địch, im tiếng súng, điểm danh sau cơn binh lửa, mới biết ai còn ai
mất. Cho hay số phận con người, trước hòn tên mũi đạn, khi chinh chiến, không
ai biết được, chỉ trông vào rủi may cho cái mạng sống của mình.
Sau chiến tranh,
đời tị nạn đã bắt tôi phải lo cơm áo cho vợ con, tôi bỗng quên bẵng đi cái chết
của con người cho đến cả 40 năm. Rồi bất thần nhìn lại, bạn bè anh em đã bạc
trắng mái đầu, tôi lại thấy cái chết lởn vởn trong tâm tư. Bây giờ tôi không
còn bác Diễn để hỏi, và cho dù tôi còn có người học trò cưng của bác là anh
Quyến, tôi cũng khó hỏi, hay có hỏi thì cũng chỉ được trả lời bằng một nụ cười
vô thưởng vô phạt. Quyến không chịu nói. Tôi cũng chả cần hỏi, cứ vô phòng đợi
tử thần (Hospice) cạnh nhà thương, hay chạy đến nhà bạn - khi được thân
nhân thông báo bạn mình, hay người thân thuộc sắp ra đi - thì biết ngay người
đó sẽ chết.
Tôi đã đến thăm
anh Đặng, một người bạn hơi lớn tuổi, một người hàng xóm của tôi. Tại phòng đợi
tử thần, tôi mường tượng thần chết, đứng kính cẩn ngoài cửa, tay lăm lăm cầm
lưỡi hái, chờ giờ hoàng đạo là nhảy vào lấy mạng người. Sự thật,
không vậy, thật khác lạ, tôi thấy một phòng ốc sáng sủa, sạch sẽ, tuyệt nhiên
không có cảnh chết, cảnh nhà thương, không thuốc men. Người bịnh được nằm yên
tịnh thoải mái trong phòng đợi. Thời điểm này gọi là hết thuốc chữa, chỉ tĩnh
dưỡng, ăn, uống và chờ đi. Anh Đặng nằm im trên giường, hai mắt nhìn lên trần
nhà, thấy tiếng động, anh quay sang gặp tôi, mừng rỡ, khuôn mặt tươi hẳn lên,
ra lời và tôi với anh bắt đầu nói chuyện:
-
Cường hả, cảm ơn cậu vào thăm tôi.
Tôi đáp đùa:
-
Phải vào chứ, tình nghĩa lúc này, làm sao bỏ được anh Đặng già thân mến, người
anh, người hàng xóm nhiều kỷ niệm của đời tôi. Anh khỏe không? ăn ngủ
được chứ?.
-
Ăn như ăn rác vô mồm, có cảm thấy gì đâu.
Vẫn cái giọng vui
đùa, anh Đặng nói tiếp
-
Năm ngoái khi đi bác sĩ, tôi biết mình bị ung thư, bác sĩ phán là phải uống
thuốc, làm kê mô (chemotherapy), yên chí sẽ sống thêm 10 năm nữa. Tôi nghe lời,
nhưng khi làm kê mô, đau đớn, ói mửa, rụng tóc, khó chịu quá, tôi nghĩ, thôi
thì bỏ kê mô, uống thuốc cũng sống được một nửa, 5 năm cũng đủ, lúc đó cũng
ngoài tám chịch, đi thì cũng vừa, đâu ngờ, bỏ kê mô, một năm sau, bệnh tái
phát, nó lan nhanh đến độ bây giờ, không còn thuốc chữa.
Nói đến đây, anh
Đặng chợt ngừng, khuôn mặt anh đang vui bỗng tối lại, thực tế đã cho anh nhìn
thấy, mình sắp đi, mà đi thật, hết vui nổi anh đã buồn bã, khóc, nói với tôi,
anh đâu muốn chết, chưa muốn Tô Bia, muốn sống vui với đời lúc nữa. Tôi ngồi im
lặng cạnh anh, không biết làm cách nào an ủi. Chỉ giữ thái độ thân thiện với
anh, đến khi anh Đặng lơ mơ chìm vào giấc ngủ, thì tôi lặng lẽ rời Hospice ra
về. Một tuần lễ sau, anh Đặng đã ra đi khi tôi đang ở Cali, không có mặt tiễn
anh. Tô Bia là nhà đòn lớn, sang trọng tọa lạc ở đường Hai Bà Trưng Sài gòn năm
xưa. Khi sống anh Đặng hay dùng chữ Tô Bia để ám chỉ nói đùa đến người chết.
Lê Thiệp là người
bạn chí thân của tôi từ Sài Gòn, tôi không phải bạn học với Thiệp, nhưng từ Ban
Mê Thuột, Thiệp đã vô Nam ở với gia đình chú Mai, cùng xóm với tôi. Ông thần
này được tổ đãi, suốt đời làm báo, lêu lổng, rong chơi, bỗng một ngày cậu vượt
biển qua Mỹ, Thiệp đến ở nhà tôi một lúc với thằng Tùng, thằng Đàn con chú Mai.
Trong lúc cầu bơ cầu bất Thiệp gặp thằng Tuyển, bạn làm báo của Thiệp, lại là
bạn thân của tôi thời trung học. Thằng Tuyển nhường cái job của nó ở
Connecticut cho Thiệp để đi Cali, vì vợ Tuyển không chịu nổi cái lạnh thấu
xương ở miền Bắc Mỹ.
Tôi còn nhớ câu
chuyện khi ở VN, tôi có dắt Thiệp cho bố nuôi tôi coi tử vi cho anh ta, bố tôi
nói, anh này phú quý tột bực, nhưng phải cái nạn thượng lộ mai thi (số chết
đường, chết xa), mà quả thật, Thiệp kể tôi nghe, khi vượt biển, anh đã cho vợ
chồng ông bà Bùi Điển đi nhờ, bạn bè nên không lấy tiền bạc chi cả, bà Bùi đã
có một thời đi bay Air-VN với Trâm, còn cậu Điển sau này ôm tờ Thủ Đô Thời Báo
ở Falls Church Virginia cho tới già. Trong lúc Thiệp đứng ở bờ thuyền trên
biển, bỗng bị một cái sóng vô cùng mạnh đánh vô, làm cu cậu văng xuống biển, may
nhờ phúc đức, Thiệp vớ được cái lốp cao su ở thành tàu, ôm mà chịu trận cho con
thuyền kéo đi, đến một lúc, hai tay Thiệp rã rời, không còn có thể ôm theo con
thuyền được nữa, thì bà Bùi, không hiểu sao trong khoang thuyền bước ra, thấy
cậu Thiệp lóp ngóp dưới biển, bèn tri hô rầm rĩ, cả thuyền nhao nhao chạy ra
cứu Thiệp. Thoát chết, Thiệp nói, sóng mạnh đến nỗi, Thiệp ở trần, mặc cái quần
đùi, mà khi văng xuống biển, sóng lột băng cả cái quần, làm cậu Thiệp lên tàu
mình trần như nhộng. Cho hay cái tâm tốt với bạn, ông Trời đã trả ơn, cho bà
Bùi thấy mà cứu Thiệp. Trời thương, Lê Thiệp đã thành công vượt bực, với hàng
chục tiệm phở ở Mỹ, ở Đại Hàn, shopping, office building đủ cả. Rồi bỗng dưng
Lê Thiệp bị ung thư gan đến thời kỳ thứ tư. Lá gan là một bộ phận âm thầm gánh
chịu mọi khổ đau cho những cơ phận khác trong cơ thể con người. Một khi nó quá
tải, không ôm nổi nữa, thì nó phát ra, và bệnh nhân chỉ có nước chờ chết. Đó là
trường hợp của Thiệp. Chị Mai vợ Thiệp, thương chồng, đã tìm mọi cách chữa chạy,
bất kể tiền bạc, nhưng vô vọng. Thiệp đã chọn "Hospice" ở nhà.
Tôi đến thăm Thiệp với Thủy, ông bạn nhậu của Thiệp, mà Thủy cũng là em ruột
ông Thụ, người bạn lớp nhì tiểu học với tôi. Điều tôi nói ở đây là tôi rất lạ
cho phong thái của Thiệp. Tôi thương bạn đến rơi nước mắt, khi biết thằng bạn
thân trong đời của mình sắp ra đi.
Thay vì cảm động,
nó đã sửng cồ mắng tôi:
- Tôi chết, tôi
không lo, tại sao ông lo. Kệ mẹ nó, chúng mình ngồi đây, nói chuyện vui.
Cả ngày hôm đó,
nó không uống rượu được nữa, pha trà cho tôi và Thủy. Cậu Thủy buồn lắm,
dân rượu với Thiệp nay lại phải uống trà. Nó loay hoay rót bình trà vô cái cốc
nhỏ xíu, bảo tôi, trà này quý lắm. "Trảm Mã Trà" đấy. Người ta bỏ trà
vô bụng con ngựa, xong chặt đầu nó, để dạ dầy con ngựa tiết ra một chất đặc
biệt cho trà. Tôi cho là nó nói phét. Ngựa đâu mà lắm thế để chém đầu. Cũng như
chuyện cà phê nanh chồn ngon nhất, người ta nói cho con chồn ăn hạt cà phê,
không tiêu, nó ị ra, đem hột đó rang lên pha cà phê uống, thực ra chỉ là phiệu,
người ta xem con chồn chọn hột nào nó ăn, người ta cho là hột ngon, bắt chước,
lấy riêng ra làm cà phê đặt tên cà phê Nanh Chồn.
Trước khi Thiệp
chết, tôi có đến ngồi với bà Toán, chị ruột nó. Chị Toán nói với tôi một câu mà
tôi thật não lòng: " Cậu Cường ơi, tôi thương Thiệp lắm, nếu tôi chết được
thay cho em thì tôi cũng chết".
Tôi biết nó nằm
trên gác, đau đớn lắm, nhưng rồi theo số phận, trời kêu ai nấy dạ. Thằng Thiệp
đã ra đi sau đó vài ngày. Tôi và ông Thủy đã đến nhà quàn đưa nó. Khi tôi và
ông Thủy thấy, chị Mai vợ Thiệp ôm cái hình của Thiệp bước ra, mắt đỏ hoe, thì
tôi biết đời bạn tôi kể như xong, bao nhiêu của cải, vợ con, tiền bạc, thương
yêu để lại cho đời, ngọn lửa sáu ngàn độ trong lò thiêu đã mang Lê Thiệp với
cái quan tài thành tro bụi. Thật buồn cho kiếp người! Cát bụi lại trở thành cát
bụi. (Poussière revient à la poussière) Đúng là Vô Thường theo đạo Phật nhiệm
mầu..
Ông Thủy, bạn
nhậu với Lê Thiệp, cũng ra đi sau đó vài tháng. Ông Thiệp ung thư gan, ông Thủy
ung thư cổ họng. Cũng như Lê Thiệp, ông Thủy chọn Hospice tại nhà, chị Liên vợ
Thủy đã dọn cho ông một căn phòng nhỏ, nằm đó, yên ắng ôn lại sự đời mà đợi
ngày đi.
Tôi là bạn học
với ông Thụ, anh ruột ông Thủy từ thời lớp nhì. Tôi hợp với ông Thủy nhiều hơn,
tuy không biết nhậu, nhưng mỗi khi sáp lại với Thụ, với Phạm Bá Vinh (anh vợ
ông Thủy) thì tôi cũng túy lúy. Tôi biết ông Thủy hơi bê tha, nhưng con người
có nghĩa lý, nên tôi cho đó là chuyện nhỏ, tôi vẫn thân với ông. Tính Thủy
thẳng thắn, hay mất lòng người. Có một lần, chúng tôi ngồi uống rượu chung, bạn
Thụ tôi hay nói chuyện cổ tích, Thụ thường kể, khi anh làm tổng đoàn trưởng
thanh niên trừ gian, anh rất ngon lành dưới chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Anh được
phái đi Mỹ, gặp tổng trưởng quốc phòng McNamara, đi giải độc sinh viên Mỹ về
chiến tranh Việt Nam. Đó là chuyện thật, nhưng cậu Thủy khó chịu vì ông anh
mình, bèn phang một câu, anh nói anh đi Mỹ giải độc sinh viên ở các trường Đại
Học về chiến tranh Việt Nam. Bây giờ anh nói tiếng Anh, tôi nghe chưa hiểu hết,
làm sao ngày đó anh nói tiếng Anh, sinh viên Mỹ hiểu được!. Ông Thụ nóng mặt vì
ông em, bèn hết cả giữ lễ, chửi cho ông Thủy một phát và kết luận, ông im cha
cái mồm ông lại. Rất may, không mất hòa khí, sau đó anh em lại dô dô vui vẻ.
Ông Thủy có cái tài, là ông uống rượu bị cảnh sát bắt bao lần, mà không bao giờ
bỏ tù ông được cả. Cứ mỗi lần thổi bong bóng là cậu Thủy tìm cách giữ lại nồng
độ rượu trong cuống họng. và hơi thở bình thường chạy ra cái bong bóng, cảnh
sát phải tha. Nhưng rồi, Trời bất dung đãng, cảnh sát đã chế ra một cái
"device" mới, khi người phải thổi bong bóng, mà không thổi đủ áp suất
cho cái "device activated" thì coi như chưa thổi, phải thổi lại. Lúc
đó tài ông Thủy hết dùng được, ông phải vận hơi thổi, hơi rượu hàng chục chai bia
trong bụng ông đã làm cho ông bị bắt vô tù. Tôi đã ứng tiền để chuộc ông ra,
sau đó, ông nghĩ cách khác là có thể qua mặt cảnh sát, nhưng không hiệu quả,
ông tái phạm lần thứ hai, cảnh sát cho ông ra tòa, thương ông, tôi đã nói Trâm
ứng tiền cho ông thuê luật sư, chúng tôi đều nghĩ, giúp ông thôi, số tiền này
sẽ không bao giờ được bồi hoàn và chúng tôi cũng không hề bao giờ nhắc nhở số
tiền này trong suốt thời gian ông Thủy ốm đau. Có một lần lâu lắm, trước tất cả
những chuyện này. Ông Thủy nói một câu trước mặt Trâm làm tôi cảm động. Thủy
nói:" bạn bè ông Thụ tôi đều gọi bằng thằng, trừ ông, bao giờ tôi cũng gọi
ông bằng ông". Mà thật vậy, bao giờ ông Thủy cũng gọi tôi bằng ông
Cường và vợ tôi là bà Trâm.
Một điều bất ngờ
nữa là sau khi ông Thủy chết, mấy năm sau, chị Liên vợ ông Thủy đã trả đủ số
tiền bảy ngàn mà Trâm đã ứng cho ông. Tôi lạ quá, điều chúng tôi không bao giờ
nhắc, sao chị Liên lại biết, hóa ra trước khi chết, ông Thủy đã tâm sự với chị
Nhâm là chị ruột, ông thiếu tôi số tiền, nhờ chị Nhâm nói vợ Thủy, nên mấy năm
sau bán nhà chị Liên đã trả.
Buổi trưa hôm đó,
hai vợ chồng tôi đang học truyền hình với Võ Thành Nhân, bỗng ông Thụ kêu tôi,
phải lại ngay, ông Thủy chết rồi. Vợ chồng tôi vứt sách vở, chạy như bay tới
nơi, thì ông Thủy vừa mới tắt thở. Không may lúc Thủy chết, Thụ vội vã lo em mà
quên cái hàm răng giả ở ngoài, Thụ nhất định bắt tôi, ghì xác ông Thủy, vừa
chết mà đã cứng đơ, để Thụ banh miệng ông Thủy ra, nhét cái hàm răng giả vô.
Thụ thật mạnh tay kéo hết sức mới kéo được cái hàm ông Thủy mở ra.
Thiệp và Thủy
chết đi để lại trong lòng tôi niềm thương mến. Hai tay này có một cá tính đáng
nể, cái chết đến với họ, nhẹ như không, chả buồn phiền, lo sợ hay thắc mắc. Đến
và đi giữa cuộc đời không lưu luyến, không tạo âu sầu phiền não cho bạn bè hay
người thân. Tuy chết bệnh, nhưng cả hai đã ra đi rất anh hùng. Thương bạn mà
lòng tôi vô cùng cảm phục.
Chưa hết, cái năm
quái ác này (2013) tôi có đến 3 người bạn đã ra đi, người thứ ba là một ông Mỹ,
bạn Trâm, lúc đầu ông Smith khai thuế cho Trâm, sau ông thành người bạn thân
thiết, vợ ông người Ukraine, đàng hoàng tư cách. Hàng năm, sau mùa thuế, Trâm
thường đãi ông bà này ăn uống, và thưởng tiền cho ông. Richard Smith bảo vệ
Trâm hết mình, bất chấp sở thuế, chuyện lớn, chuyện nhỏ, "audits" hay
"questions" Richard đến tận nơi, ăn thua đủ với nhân viên thuế
vụ. Từ ngày có ông Smith, Trâm ăn no, ngủ yên, kiếm tiền mà không hề sợ sở thuế
dòm ngó. Nhưng rồi cũng như ông Phật đã nói, mỗi người chỉ đi được với nhau có
một đoạn đường, bất kể ai là ai. Có hợp, phải có tan, đúng sau 30 năm khai
thuế, ông Smith gặp chúng tôi, đáng lẽ tiến hành công việc như thường lệ, ông
lại nói là sẽ khai thuế năm chót, vì sức khỏe ông xuống quá. Từ một người vạm
vỡ, cao lớn, ông tụt 90 pounds, gần một nửa trọng lượng con người. Dù hết sức
rồi, với lời hứa, bà vợ Ukraine cũng chở ông từ Gettysburg xuống khai thuế cho
Trâm. Chúng tôi đã đãi hai vợ chồng người bạn bữa cơm lần chót để ông nhập
viện.
Đến khi biết ông
vô Hospice, chúng tôi lặn lội lên thăm. Cái cảnh Hospice, ôi hãi hùng, phòng
đợi của tử thần, trông yên hàn tĩnh mịch nhưng ngầm chữa nỗi kinh hoàng. Mỹ
cũng như Việt đều chung số phận, mỗi người nằm đó ôn lại những phút chót
của đời người bằng những lối suy nghĩ khác nhau, không biết do tinh thần, trực
giác hay vô thức mà phản ứng mỗi người mỗi khác. Richard Smith, không bao giờ
nghĩ mình sắp chết, ông nằm trên giường bệnh, thân hình còn bằng đúng một nửa,
ông ta chỉ còn là bộ xương nhúc nhích, hai con mắt chìm sâu vào trong hốc
mắt. Chúng tôi tuy thương ông, nhưng nhìn ông không khác gì một con ma còn
sống.
Richard vẫn tỉnh
táo nói với Trâm, hôm nay thứ sáu, tôi nghỉ cho khỏe, thứ hai vợ tôi sẽ chở tôi
xuống Virginia, tôi sẽ làm nốt cái State tax cho bà. Ông nằm đó, không chấp
nhận cái chết, hay ông dối nó cho là ông sẽ không chết, vì ông còn ham sống quá
chăng?. Cho đến lúc chúng tôi bắt tay ông ra về, ông vẫn còn thì thào nói với
Trâm, "See you Monday for your State tax". Ba ngày sau đó, ông đã
không xuống Virginia, mà chúng tôi phải trở ngược lên Gettysburg tiễn ông trong
một nhà thờ Orthodox, vì ông là cựu chiến binh Hoa Kỳ, người ta đã bắn bảy phát
súng tiễn ông trước khi hạ huyệt.
Cho dù Hospice
tại Hospice (riêng rẽ), Hospice tại gia, hay Hospice tại nhà thương, tôi đều
thấy các bạn tôi ra đi mau mắn, trường hợp bạn Sỹ, Hospice tại Maryland, thì
bạn lại ra đi lâu lắm. Sỹ cứ nằm đó mà không chịu chết. Nguyễn Văn Long bảo
tôi, mình phải đi thăm Sỹ, Ông bà Long Lan, vợ chồng tôi đã đến Hospice vào
buổi chiều nhá nhem thăm Sỹ. Bà Lan cẩn thận mua bó hoa, vì cho rằng những
người nằm trong Hospice thì ăn uống được gì nữa đâu. Bốn người chúng tôi ngồi
nói chuyện với Sỹ lâu lắm.
Tôi thấy Sỹ không
có triệu chứng gì là sắp ngủm cả, tôi bèn khều Long ra ngoài nói nhỏ. Sỹ có gì
đâu mà họ lôi anh ta vô đây nằm lâu quá.
Vô lý, họ phải
cho anh ta trở lại nhà thương để chữa trị. Long nói không hiểu sao, chứ bà vợ
Sỹ nói là hết thuốc chữa rồi, Ung thư nó ăn hết tim gan, phổi thận, còn gì nữa
đâu để mà sống. Tôi không trả lời Long, nhưng nghĩ Long đã bảo vợ Sỹ nói thì
phải trúng. Sỹ là bạn với tôi và Long cùng thời Sư Đoàn 5. Long ở Tiếp Vận, Sỹ
ở Tổng Quản Trị, còn tôi ở quan sát viên. Chúng tôi có duyên với nhau, suốt bao
năm chinh chiến, đi đâu cũng gặp. Anh chàng Sỹ này tính vui nhộn, sống rộng rãi
theo kiểu Nam Kỳ, xả láng sáng về sớm. Trước khi động viên đi lính, Sỹ làm quan
thuế, rất cổ tài.
Thường rộng rãi
trong lúc ăn nhậu, tôi có một kỷ niệm bắt tức cười với anh, mà không dám cười.
Số là hôm đó chúng tôi họp tại bộ tư lệnh sư đoàn có tướng Thuần, tư lệnh chủ
tọa. Sỹ và tôi là loại cóc cắn, ngồi tuốt phía sau, Sỹ lấy thuốc lá ra hút,
thời đó, sĩ quan anh nào có cái quẹt lửa gas là sang lắm. Rút điếu thuốc, ngậm
lên môi, bật cái quẹt gas lên, ngọn lửa xanh rờn, mồi thuốc thật ngon, không có
mùi xăng như quẹt zippo, hay mùi diêm sinh ngai ngái như que diêm. Bỗng tôi
thấy Sỹ bật cái quẹt gas lên, rồi ngã ngửa ra đằng sau, ôm lấy mũi, hai hàng
nước mắt chảy ròng ròng. Lạ quá, ông tướng ngồi đó tôi đâu dám hỏi. đến khi tan
buổi họp, tôi thấy mũi Sỹ đỏ lòm, tôi hỏi Sỹ, anh mới nói, không biết đứa nào
rắn mắt, lấy cái quẹt gas của Sỹ, vặn cao hết mức, khi bật lên, lửa gas có thể
cao cả tấc. Ngọn lửa đã không mồi điếu thuốc trên môi, mà đâm thọc vào mũi, đau
quá, Sỹ bụm mặt, miệng muốn chửi thề, khốn nỗi ông tướng ngồi trên. Sỹ đau quá
không văng được câu chửi, phải bịt miệng cho nước mắt chảy ra. Sỹ kể cho tôi,
lúc đó anh mới văng tục một tràng ra cho hả nỗi đau mà trước đó không chửi
được. Làm tôi vừa tội nghiệp cho bạn vừa tức cười cho hành động của Sỹ,
ngồi bên cạnh tôi đã ngửi mùi khói khét lẹt của lông mũi Sỹ.
Rồi đất nước hết
binh đao, Sỹ ở tù mệt nghỉ, khi đến Mỹ, sống đời sung sướng. Tôi hỏi Sỹ, đi sau
đến muộn làm sao sống đời sung sướng? Sỹ nói, vì đi sau, đâu có học hành chi
mô, Tôi làm Janitor cho tòa báo Washington Post. Tôi kể chuyện diễu hay quá,
mấy anh em ở đó thương, kêu tôi không phải làm gì cả, cứ kể chuyện vui cho họ
nghe, đỡ buồn ngủ, là họ sẽ làm hết công chuyện cho Sỹ. Từ đó, hằng đêm Sỹ vác
chiếu đi làm, kể chuyện riễu cho anh em và supervisor nghe, xong là tìm chỗ
ngủ, đợi đến giờ về là anh em đánh thức Sỹ dậy.
Bây giờ Sỹ nằm
đây, khuôn mặt vui tươi nói chuyện, chúng tôi đã yên lặng lắng tai nghe,
Sỹ nói: *
Tôi cảm ơn vợ chồng Cường với Long đã đến thăm trong đêm tối, dù chỉ ngắn ngủi
thôi, nhưng vô vàn hạnh phúc. Đời tôi đang nằm đây, nếu có ai nói nhất nhật tại
tù bằng ba thu tại ngoại, Thực không thấm vào đâu. Tôi phải nói một đêm nằm
trong Hospice bằng ba năm nằm trong tù, nó kinh hoàng lắm bạn ơi. Tám giờ tối,
khi những "services" trong nhà thương đã hết, người gác đóng cánh cửa
lại, cho dù đèn vẫn bật sáng, nhưng cái im lặng làm cho tôi vô cùng sợ hãi. Nằm
nghĩ viển vông, biết rằng cuộc đời đến đây là hết, nhưng nó hết như thế nào.
Mình sẽ chết ra sao, sáng mai mình có dạy không? Còn hy vọng nhìn vợ con nói
điều trăn trối, hay âm thầm nhắm mắt ra đi, mỗi tiếng động, mỗi tiếng kêu than,
cho đến mỗi tiếng thở dài của những người bệnh nhân tôi đều nghe thật rõ, tôi
cứ nằm đó, mắt không nhắm, không mở, không thức, không ngủ. Tôi muốn ngủ, nhưng
không sao ngủ được, nghĩ ngợi mung lung, muôn ngàn muôn vạn ý nghĩ nhào vô
trong đầu làm mình muốn điên luôn.
Tôi ngắt lời Sỹ,
sao bạn không bật TV lên coi cho nó thật mỏi mắt thì nó sẽ ngủ. Sỹ nói:
- Đã làm hết cả
rồi, không ăn thua gì cả. Cái điều mình không biết ngày mai ra sao, thì mình
còn hy vọng, đằng này, mình biết ngày mai mình chết, thì còn gì để nghĩ, còn gì
để hy vọng. bấu víu vào ai, tin tưởng vào cái gì?. Cứ thế và tôi phải thức,
phải sống suốt đêm. Trời ơi, đêm dài lắm, Tôi mong có tiếng động, tôi mong cho
trời sáng, để tôi thấy người ta qua lại lên xuống để mình biết mình đã qua đi
được một đêm hãi hùng...
Nghe Sỹ nói,
chúng tôi thương bạn quá, không nỡ về, kéo hai bà vợ ngồi lại cho đến gần nửa đêm
mới từ giã. Chia tay nhau, mỗi người một ngả, Long đi Maryland, tôi lui lại
Virginia. Có lẽ đời Sỹ sống quá nhởn nhơ, hồn nhiên vui vẻ, ông Trời ghét, bắt
Sỹ phải sống lâu dài trong Hospice, đến cả tháng Trời, để nghiền ngẫm khổ đau,
để biết đời là bể khổ. Tôi và Long trở lại hơn 1 tháng sau, khi Sỹ đang hấp
hối, lúc này bịnh bắt đầu lây, chúng tôi để hai người vợ ngoài hành lang, Long
và tôi, trang bị mặt na, mặc áo chống vi trùng bước vô thăm Sỹ, anh mệt lắm,
chắc cũng không biết chúng tôi đến, anh chỉ cố sức kéo buồng phổi, lấy hơi vô
để kéo dài sự sống, bà vợ Sỹ thì đứng cạnh, thương chồng, nước mắt lưng tròng,
giọt ngắn, giọt dài rơi lã chã, gọi chồng, anh ơi! anh ơi, anh Cường và anh
Long lại thăm nè, ráng mở mắt ra anh Sỹ ơi, tiếng gọi rơi vào thinh không.
Trong phòng chỉ còn tiếng khò khè kéo hơi từ hai buồng phổi của Sỹ. Chúng tôi
đứng lâu lắm, dù không nói chuyện với Sỹ được tiếng nào, nhưng để ai ủi cho vợi
nỗi đau của vợ Sỹ.
Sinh ký tử quy
(Sống gửi thác về) là định luật muôn đời. Nếu đời là bể khổ?. Sao ta cứ tiếp
tục sinh con đẻ cái, gieo hạt, gieo mầm cho nỗi thống khổ kéo dài bất tận cho
loài người ? Mà nếu đời là bể vui, thì cuộc đời chàng Sỹ, sống không biết khổ
là gì, cuối đời, ông trời bắt sống trong phòng đợi, mà chầm chậm cho thần chết
rước đi. Tôi nhớ mãi câu nói của Sỹ:" Khổ lắm Cường ơi! Một ngày
trong tù bằng 3 năm sống ngoài đời và một ngày trong Hospice, bằng 3 năm sống
trong tù".
Đời tôi sẽ ra
sao? Tôi sẽ chết, không nhắm được mắt vì đau đớn bịnh tật, hay êm thắm ra đi,
hay âm thầm lo hãi ngày đêm nằm trong Hospice, như Sỹ, như Smith, như Thủy, như
Thiệp. Chịu thua. Tôi thấy bế tắc, nhưng bế tắc mà vẫn biết mình cũng sẽ phải
đến điểm khởi hành. Cũng vậy thôi, nào ai thoát khỏi. Có một điều vắn gọn là
cảm ơn Trời đã cho tôi làm người, cảm ơn đời đã cho tôi sống tới ngày hôm nay,
cho dù tôi chả đẻ bọc điều, lớn lên không cha không mẹ,
Tôi thèm khát
tình thương tình người. Tôi phải trả giá biết bao nhiêu, không phải để thành
công, thành danh, mà cái giá quá đắt khổ đau, nhục nhằn tôi trả, chỉ để
đổi lấy được sống bình thường như những bạn bè tôi. Tôi cảm ơn Trâm, vợ tôi đã
lấy tôi qua bao trở ngại, thương tôi, sống bền vững bên tôi, cho tôi bốn đứa
con, một mái gia đình. Cho dù hôm nay, gia đình chúng tôi sẩy đàn tan nghé, mẹ
già chúng tôi ra đi lúc 104 tuổi, con cái, đứa theo chồng, đứa theo vợ. Chúng
nó xây đời tự do riêng tư cho nhau. Một mẹ già, hai vợ chồng, 8 đứa con cả dâu
lẫn rể, 7 đứa cháu, bỗng dưng bà cụ ra đi là tan hết, mỗi tiểu gia đình mỗi
ngả, chung quy còn lại cuki có hai vợ chồng. Trâm thường hoài niệm, nuối tiếc
những thời đã qua. Nhưng tôi đã hiểu biết phần nào qua cuộc đời những người bạn
tôi. Tôi khuyên Trâm, hãy theo ông sư Trần Đức Giang, người bạn cũ năm xưa, nay
là cao tăng Nhật Bản, từ mấy chục năm qua, Giang đã qua đây, chỉ cho chúng tôi
rằng, "Hoan Hỉ Phụng Hành" hãy vui vẻ giúp đời và " Trung Thứ
Truyền Chi" tha thứ mà vui sống, đừng trách cứ con cái hay bất cứ
ai.
Kết luận cho bài
viết này, tôi xin chia sẻ với các bạn hai câu mà tôi mới học được, nó vô cùng
chí lý: "Khi biết nhân quả, không trách Trời, Khi biết mình, không trách
người".
Quốc Thái - Đinh Hùng Cường.