RIÊNG MÌNH MỘT TIỆC TẠ ƠN
Trong
dịp
Lễ
Tạ
Ơn
đã qua, Tân một
mình ghé quán phở đường Bolsa ăn trưa.
Vì đông khách, chủ
quán dùng một
dãy bàn dài đặt
ngay cửa
ra vào, coi như
bàn chung của
những
thực
khách đi riêng rẽ.
Cứ
ghế
nào trống
thì một
thực
khách được
xếp
vào, bất
kể
là ai. Tình cờ,
Tân được
sắp
ngồi
đối
diện
với
một
bà khoảng ngoài sáu mươi đang ngồi ăn cơm. Tân lịch
sự
chào bà này trước
khi ngồi
xuống,
xong kêu tô phở
như
thường
lệ.
Nhìn
sang phía bà này, Tân lấy
làm lạ,
sao bà này ăn trưa
chỉ
có một
mình mà sao lại
gọi
lắm
món thế,
không giống
ai cả.
Vốn
quen nghề
điều
tra
và thẩm
vấn,
Tân vui vẻ
gợi
chuyện:
- Bà
thường
hay ăn trưa
ở
đây không?
Bà
đáp:
- Lâu
lắm
mới
sang đây, nay ăn bữa
trưa
cho vui rồi
mai về.
Nghe
tiếng
Huế,
người
cùng miền,
Tân đã hiểu
một
phần
lý do: Người
Huế
vẫn
còn ảnh
hưởng
tục
vua chúa, tuy không ăn
uống
được
nhiều
hơn
ai, nhưng
lại
thích có nhiều
món trong một
bữa
ăn, dù nhiều
ít. Tân hỏi
tiếp:
- Vậy bà không phải người ở
đây sao?
Được lời như
mở
tấm
lòng bà đáp:
- Hồi trước tôi cũng có ở
Cali , thỉnh
thoảng
cũng đến
đây ăn. Kỳ Lễ
Tạ
Ơn
này sang thăm Cali, sẵn
đi lang thang, ghé vào đây ăn một bữa
rồi
mai về
lại
Texas.
À, thế Tân mới hiểu
thêm lý do: Bữa
ăn này coi như
“Tiệc
Lễ
Tạ
Ơn”
của
bà. Từ
từ,
Tân tiếp:
- Bà
thấy
vùng này bây giờ
có vui không?
Nghe
giọng
Tân cũng là người
miền
Trung, hay hỏi
và chịu
nghe, cảm
thấy
như
thể
người
thân, bà mới
vừa
ăn, vừa
lai rai nói chuyện
như
để
giải
tỏa
nỗi
lòng u uẩn
khôn khuây của
mình. Tân chú ý nghe và nhớ,
thuật
lại
đại
khái
như
sau:
Từng đã bị kinh hoàng và may thoát cảnh bị
đập
đầu
chôn sống
trong trận
Mậu
Thân, nên khi Việt
Cộng
sắp
tiến
chiếm
Huế
vào mùa xuân 1975, vợ
chồng
bà bồng
giắt
bốn
đứa
con chạy
thí mạng
xuống
thuyền
đói khát, may mắn
thoát chết
vô đến
ở
Vũng Tàu. Rồi cuối tháng 4, tiếp
đến,
lại
thuê thuyền
ra hạm
đội
Mỹ,
sang Guam, rồi
định
cư
tại
Nam Cali này từ
hồi
1975. Con cái dần
lớn
khôn, ăn học
thành tài, có công ăn việc
làm tốt
và đều
ra riêng. Vợ
chồng
bà đều
có học
thức
nên hội
nhập
vào đời
sống
Mỹ
dễ dàng. Cả hai đều
làm cho hãng xưởng
kỹ
nghệ.
Chẳng
may bà bị
tai nạn
lao động
thế
nào đó và xem như
tàn phế,
bà được
bồi
thường
số
tiền
gần
vài trăm ngàn, bà
đã chia cho bốn
người
con để
chúng làm vốn,
đặt
trước
mua nhà cửa
ở
vùng Nam Cali.
Sau
đó, chồng bà phải theo công việc làm, dọn sang Texas, bà cũng theo sang đó định cư
luôn. Lâu nhớ
Cali bà cũng muốn
quay sang chơi,
thăm con cái và gặp
lại
người
quen cũ, dạo
nhìn lại
những
cảnh
bờ
biển
mà bà ưa
thích, để
gợi
lại
những
kỷ
niệm
yên bình đầu
tiên, khi gia
đình bà mới
đặt
chân trên quê hương
thứ
hai này. Cũng đã nhiều
năm qua, nay nhân dịp
lễ
Tạ
Ơn,
ông nhà phải
về
thăm Việt
Nam lo chuyện
gia tiên mồ
mả.
Ở
nhà một
mình buồn,
bà ra sân bay, đứng
chầu
chực,
đáp được
chuyến
bay từ
Texas về
Cali chơi
và ghé
thăm mấy
người
con.
Đầu tiên bà đến nhà người con trai út. Cậu
này chưa
vợ.
Nhà cậu
thường
có bạn
gái đến
chơi.
Nay sợ
có bà ở
đó làm mất
tự
do, sợ
bạn
gái phiền,
nên cậu
ta không muốn
tiếp
bà. Cậu
khéo léo khuyên bà đến
ở
với
các anh chị
sẽ
thuận
tiện hơn, thêm lý do cậu bận việc
không tiếp
và lo cho bà được.
Bà đến người con trai áp út, nhà ở
trên đồi
sang trọng,
nhưng
cách trở
khu Little Saigon nơi
bà muốn
lui tới,
thêm nữa
bà không hiểu
vợ
chồng
anh này nghĩ gì và làm gì, cứ
lái xe đi cả
ngày, về
đến nhà thì ngủ, không nói gì đến bà, không màng lo chuyện cơm nước
gì cả,
cứ
để
mặc
bà thui thủi
một
mình, không hề
hỏi
đến.
Quán xá thì xa, không ai đưa
đi, đường
xe buýt bà chưa
rõ. Bà thấy
nhà sang trọng
nên cũng ngán, cái gì bà cũng không dám sờ vào vì sợ hư hỏng
hay nhớp
nhúa, con dâu sẽ
phiền.
Nhà cửa
trên đồi
nhìn xuống
thung lũng rất
đẹp,
cuối
thu trời
gió lạnh,
nhưng
không mở
sưởi
điện,
sưởi
gas nào hết.
Bà hỏi
thì được
cho biết
lò sưởi
hư.
Bà thấy
cảnh
này vừa lạnh trên thể xác, vừa lạnh
trong tâm tư nhiều hơn,
và nghĩ đi Lễ
Tạ
Ơn
sum họp
mà cảnh
này quá buồn.
Cảm
thấy
con và dâu không muốn
tiếp
mình, nhưng
chẳng
lẽ
chờ
chúng đuổi
đi. Một
mình ở
nhà, bà gọi
taxi đến
nhà người
con gái lấy
chồng
Mỹ.
Đến đây, người con rể Mỹ
thấy
bà mang bị
đến,
chỉ
nhìn bà và “Hi” một
tiếng,
rồi
tỉnh
bơ
coi như
không có bà. Con gái bà biết
ý chồng,
không muốn
khách khứa
nhà quê quấy
rầy.
Nhà chỉ
có ba phòng ngủ,
cũng chỉ
đủ
cho vợ
chồng
cô ấy
và hai con mỗi
đứa
một
phòng. Để
bà ở
chung phòng với
cháu, sợ
bà già cả, sụt sùi lây bệnh nên cô tìm cách thoái thác, bảo bà rằng vợ
chồng
cô và hai đứa
cháu sắp
sửa
đi nghỉ
mát ở
Big Bear trượt
tuyết
và khuyên bà nên tạm
sang ở
với
người
anh trưởng.
Xong lấy
xe chở
bà thả
trước
sân căn nhà lầu
của
người
con trưởng,
lớn
rộng
cả
gấp
đôi căn nhà trung bình.
Lâu
ngày gặp
lại
mẹ,
thay vì vui mừng,
mời
mọc
chở
bà đi chơi
hay hàn huyên tâm sự,
hỏi
thăm chuyện
người
này người
khác, hoặc
sắp
đặt
chỗ
ăn ở
cho bà một
cách thân tình, nhưng
chỉ
sau một
tuần
trà nước
với
vài chuyện
qua loa, vợ chồng người
con trai cả
trách bà: “Mạ
muốn
sang chơi,
sao không hẹn
trước
để
chuẩn
bị.
Nhà còn một
phòng trống
nhưng
cô em vợ
đã gọi
điện
thoại
đặt
chỗ
trước
cả
2 tuần
rồi,
tối
nay từ
New York cô ấy
bay sang. Vợ
chồng
con đã hứa
dành sẵn
cho cô ấy
ở
đây
nghỉ
trong dịp
lễ
Tạ
Ơn
này một
tuần,
vậy
đâu còn phòng nào cho mạ
ở.
Vậy
phiền
mạ
sang ở
với
mấy
em con”.
Nghe
thế,
bà bối
rối
vài phút. Lấy
lại
bình tĩnh, bà nói không sao để
má chơi
đây một
lát rồi
má đi. Dạo
thăm sơ,
sau trước
căn nhà, rồi
bà nói đỡ gượng: “Ờ
con gọi
giùm cho mạ
chiếc
taxi mạ
đi”. Thấy
bốn
người
con đều
không ai muốn
tiếp
đón mình, bà bảo
taxi đưa
đến
một
motel ở
vùng Little Saigon và bà được
nơi
đây đón nhận
nồng
ấm.
Rồi
từ
hôm đó, bà đi lông bông dạo
chơi
xem thiên hạ
mua sắm,
ngắm cảnh trí vùng Nam Cali, thăm vài bà bạn cũ rồi
về
motel nghỉ.
Trưa
nay đến
quán này, bà gọi
bồi
bàn dọn
cho bà một
“Tiệc
Tạ
Ơn”
giữa
những
quán khách xa lạ
ồn
ào. Rồi
mai bà sẽ
sayonara California, giữa
trời
cuối
thu tê tái, cũng có thể
là lần
sau cùng.
Nghe
bà vừa
ăn vừa
kể,
với
một
giọng
Huế
nhẹ
nhẹ
buồn
buồn,
khiến
Tân cũng buồn
lây, nhớ
đến
câu thơ
của
người
xưa:
“Cùng một
lứa
bên trời
lận
đận.
Gặp
gỡ
nhau lọ
sẵn
quen nhau” (Tỳ Bà Hành) nên tìm lời an ủi
bà ta, bằng
cách nói:
- Tỵ nạn sang ở
xứ
này, phần nhiều là vậy,
hơi
đâu mà bà buồn,
cũng do mình một
phần
là không lấy
hẹn
trước
mà thôi. Nhiều
người
còn gặp
trường
hợp
trầm
trọng
hơn
bà nữa,
nhưng
người
ta không nói ra vì sợ
xấu
hổ
mà thôi. Phần
đông cũng có ít nhiều
gặp
hoàn cảnh
như
vậy,
bà nên tỉnh bơ đi chỗ
khác chơi
cho vui rồi
mai về.
Bà
than: - “Ra đi là kể
như
chìm biển
đông mà”.
Tân
phụ
hoạ:
- Sau bao năm chiến
tranh, bom đạn,
chạy
giặc
qua biển
cả
hiểm
nguy, bà còn sống
sót đến
bây giờ
tại
Mỹ
là vui rồi.
Hơi
nào mà buồn.
Miễn
sao bà được mạnh giỏi và minh mẫn
là tốt,
còn mọi
thứ
khác, sao cũng được
thôi.
Nghĩ
bà cũng rành chuyện
xưa,
Tân nhắc
lại
vài chữ
trong câu đối
đáp của
danh sĩ Ngô Thời
Nhậm
với
Đặng
Trần
Thường:
-
“...Thời
thế
thế,
thế
thời
phải
thế.”
Và tiếp: - Mỗi nơi
đều
có phong tục
và văn hóa khác nhau, có khi hoàn toàn trái ngược là chuyện
bình thường.
“Thanks” mà bà đã “giving” rồi
thì còn gì mà “thanks” nữa,
nên là hết
“thanks” rồi,
đừng
nghĩ đến
nữa.
Người
da đỏ
đã chào mừng
và giúp người
da trắng,
người
da trắng
đã quay lại
đàn áp người
da đỏ.
Bà cũng như
người
lái đò, đưa
người
qua sông rồi
thôi, mấy
người
ngoảnh
lại
mà nhớ
kẻ
lái đò. Người
đi nhờ
thuyền
chùa vượt
sông biển,
đến
nơi
không cảm
ơn
người
chủ
thuyền,
còn lấy
ơn
làm thù, hăm dọa,
chửi thề vung vãi để
trả
công cũng là chuyện
đã có.
Nghe
và nói đến
đây, tô phở
cũng đã ăn xong, Tân vội
chào từ
giã, lại
quày trả
tiền
và bước
ra khỏi
quán, rộng
chỗ
cho những
khách đang chờ.
Trên đường
lái xe đi, suy nghĩ về
chuyện
bà này, Tân nhớ
đến
chuyện mình lúc trước, bỏ quê, tay trắng
đến
Sàigòn mưu
sinh, kiếm
một
chỗ
cư
trú thật
rất
khó khăn. Nhưng
sau nhiều
năm, Tân đã có một
căn nhà, nhỏ
hơn
cái garage chứa
2 xe của
mỗi
nhà Mỹ
ở
vùng này. Nhưng
bà con xa gần,
quen biết
ở
quê, mỗi
lần
đến
Sàigòn, vì
bất
cứ
công việc
gì, họ
đều
ghé trọ
lại
năm ba ngày. Có khi một
lúc đến
mười
mấy
người,
mà vẫn
có đủ
chỗ
ngủ
nghê, cơm
nước.
Tân không lấy
đó làm phiền
mà còn lấy
làm vui vì được
dịp
hân hạnh gặp lại thăm họ
và giúp đỡ
cho họ
khỏi
phải
tốn
kém và thường khi còn chở họ ra quán xá đãi đằng.
Tân còn nhớ
một
người
đồng
hương,
chồng
làm thợ
hồ,
vợ
gánh nước
mướn
ở
Sàigòn lúc trước,
nhà cửa
bằng
nửa
cái garage nhà Mỹ,
chật
chội
nhưng
lúc nào khách từ
quê đến
cũng có thể
tạm
trú, cơm
nước
được
mời
mọc
miễn
phí.
Còn ở California này, những căn nhà mới thường rộng
hơn
cái đình làng ở
quê ta, nhưng
chỉ
thêm một,
hai người
ở
tạm
vài hôm lại
không được,
đó cũng là một
nét tương
phản,
nhất
là ở
giới
chuyên môn, khá giả.
Khiến
Tân bâng khuâng suy nghĩ về
hai thái cực: Một bên là chỗ nghèo chật, lại rộng
lòng. Còn ở
xứ
này lại
trái ngược:
chỗ
ở
giàu rộng,
nhưng
hẹp
lòng. Âu cũng là một
khía cạnh
khác về
nước Mỹ. Lớp trẻ
được
cha mẹ
sống
chết
khó khăn đưa
sang Mỹ,
chưa
hề
tiếp
xúc với
hoàn cảnh
gian nan, đói khổ,
chật
vật
ở
Việt
Nam nên không hiểu
được
tình tương
trợ
đùm bọc,
rất
khó tính và rất
cá nhân vị
kỷ.
Nhật Quang, 2005
|
Saturday, 5 January 2013
Thanks Giving
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment