!2/8 Dl
làngày Giỗ Thầy Lương Minh Đáng, Tổ Sư ngành Nhân Điện có tên gọi : “Nhân Loại – Giác Ngộ- Tình
Thương”, tiếng Anh là : “Mankind- Enlightenment- Love” viết tắt là MEL. Có nhiều
ngành học Nhân Điện khác nhau, ngành học Nhân Điện do Thầy Đáng sáng lập có những
đặc điểm riêng biệt, mục đích, đối tượng, nội dung đều rất khác với những ngành
học Nhân Điện khác, do những người khác truyền dạy.
Nhân Điện
MEL của Thầy Đáng sáng lập và truyền dạy trong khoảng 17 năm, trải qua nhiều sự
biến đổi, nhiều bước thăng trầm, và đã trở nên phân hoá thành nhiều phe nhóm
khác biệt nhau về đủ tất cả mọi thứ, từ hình thức đến nội dung. Ngành học Nhân
Điện “Nhân Loại- Giác Ngộ- Tình Thương – MEL” của Thầy Đáng đã có những biến đổi
rất lớn, sau khi Thầy Đáng mất bất thình lình vì chứng bịnh tim đột quỵ, không
có sự chuẩn bị nào trước cho việc kế thừa, lãnh đạo, phát triển…. ngành Nhân Điện
MEL, vào ngày 12/ tháng 8, năm 2007 tại Melbourne.
Khi thịnh thời,
nhiều lớp học Nhân Điện Thầy Đáng có tới vài ngàn Học Viên tham dự, có lớp 5
ngày, có lớp 7 ngày, có lớp 10 ngày, mỗi ngày 8 tiếng, cho nên nếu hỏi Thầy
Đáng đã dạy những gì thì không thể kể hết trong một vài bài viết ngắn ngủi. Tuy
nhiên, chúng ta có thể tóm tắt một số điều quan trọng Thầy Đáng đã dạy, nhân lễ
Giỗ Thầy Đáng năm nay, chúng ta có thể kể qua một số ý tưởng quan trọng trong
suốt những bài dạy Nhân Điện của thầy Đáng, trước nhứt là những vấn đề liên quan
đến chuyện cúng bái, thờ phượng, lễ giỗ….
Thầy Đáng
nói lễ Giỗ là một trong những phong tục tập quán lâu đời đã có từ nhiều ngàn năm
của người Việt Nam, bản thân Thầy Đáng cũng giữ gìn những phong tục tập quán, Lễ
Giỗ, cúng bái ông bà cha mẹ, tổ tiên…., cho nên Học Viên Nhân Điện cũng có thể
làm giống như Thầy Đáng, Học Viên cũng có thể tổ chức lễ Giỗ cho những người
thân đã qua đời, nhưng không bắt buộc, Học Viên theo, hay không theo tùy ý.
Nghiã là Học
Viên Nhân Điện muốn cúng Giỗ cũng được, mà không cúng Giỗ cũng được, nếu vì
nguyên nhân, lý do gì mà Học Viên không cúng Giỗ ông bà cha mẹ, thì cũng không
sao, Học Viên cũng không có lỗi, không có tội tình gì hết. Thực tế, cho dù Học
Viên có cúng Giỗ ông bà cha mẹ thì cũng không chắc có ích lợi gì, vì ông bà cha
mẹ khi đã chết thì không còn ăn uống được nữa, cho nên trên nguyên tắc thì dù
cho có cúng kiếng bất cứ món ăn, thức uống, rượu trà, gà vịt gì, cũng là vô
ích, cũng không cần.
Thầy Đáng
nói rằng Linh hồn không ăn, không mặc, cho nên chuyện bày ra lễ Giỗ cúng kiếng
thức ăn thức uống gì cũng chỉ là hình thức, chỉ là phong tục, tập quán, cũng đều
vô ích, cũng không cần thiết đối với linh hồn người chết, cho nên nếu có cúng
kiếng, trên nguyên tắc linh hồn không ăn uống thì chuyện cúng chay hay cúng mặn
gì cũng được, cái nầy không quan trọng. Tuy nhiên, chuyện cúng kiếng, van vái linh
hồn người chết, trên thực tế lại có những hiệu qủa rất kỳ lạ, chúng tôi có một
số kinh nghiệm cá nhân rất đáng quan tâm, rất cần nên suy nghĩ, rất đáng luận bàn
để hiểu biết, học hỏi, ứng dụng, hành xử, không thể dễ dàng phủ nhận sự hiện diện
của những linh hồn người chết bên cạnh chúng ta.
Trước nhứt, chúng
tôi xin được kể ra ở đây một câu chuyện thật 100% của Bà xã tôi, lúc đi dạy học
ở Vĩnh Long, năm 1968, có mướn một căn nhà trọ ở ngang trường Kỹ thuật Vĩnh
Long, ngay đêm đầu tiên dọn đến căn nhà trọ mới được xây cất, vừa mới vào giấc
ngủ đầu hôm, Bà Xã tôi đã thấy một ông lão khoảng 80 tuổi, râu tóc bạc hiện ra
với vẻ mặt giận dữ, la mắng đuổi xô không cho Bà Xã tôi ở, ông lão nói đây là
nhà của ông ta, ông ta không muốn cho người lạ ở!. Sáng hôm sau, khi nghe bà xã
tôi kể lại chuyện chiêm bao đêm rồi, ông nhạc gia tôi đi mua gà, nhang đèn, trà
rượu, cơm canh…để cúng bái, cầu xin ông già kia cho bà xã tôi được ở nhờ một thời
gian.
Điều kỳ lạ
là chỉ có cúng bái cầu xin vậy thôi, mà sau đó thì linh hồn người chết không
còn hiện lên trong giấc ngủ của bà xã của tôi nữa, thời gian suốt 2 năm liền
cho đến khi dọn đi, còn có một chuyện kỳ lạ khác nữa là sau đó tình cờ người ta
đã tìm thấy một ngôi mộ được chôn ngay dưới nền căn nhà trọ của bà xã tôi. Thực
ra thì nguyên cả khu nhà mới cất nhiều căn để cho mướn nầy, trước kia vốn dĩ là
vùng đất nghiã địa, nhiều ngôi mộ đã được thân nhân di dời đi nơi khác, nhưng vẫn
còn có những ngôi mộ không có thân nhân di dời, như ngôi mộ của ông già tóc bạc
nầy.
Chuyện nầy
chứng minh một số điều kỳ lạ, huyền bí, linh hiển của thế giới tâm linh siêu
hình, như là: sự tồn tại của những linh hồn người chết bên cạnh người sống, có
chuyện linh hồn người chết nhưng không siêu thoát, linh hồn không siêu thoát
thì vẫn quanh quẩn nơi chôn cất thân xác, có chuyện hiển linh của linh hồn người
chết để tiếp xúc với người sống, có sự đồng
thuận, cảm thông của linh hồn người chết với người còn sống qua những hình thức
cúng bái, cầu nguyện linh hồn.
Đó là chuyện
thật, là kinh nghiệm bản thân, gia đình, của cá nhân tôi, còn theo lời dạy của
thầy Đáng thì Lễ Giỗ nếu có ích lợi thì chỉ có ích lợi đối với những người còn
sống chớ không có ích lợi đối với người đã chết, chẳng những không có ích lợi
gì, mà trái lại, lễ Giỗ có khi còn có hại đối với linh hồn người chết. Thầy
Đáng nói có nhiều chuyện, nhiều điều mâu thuẫn, phi lý trong việc làm lễ Giỗ
cho người chết, vì khi người thân qua đời, chúng ta đã cầu nguyện, cầu siêu, cầu
an… đủ thứ, chúng ta đã cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thoát,
nghiã là chúng ta đã cầu cho linh hồn người chết không còn hiện diện, không còn
tồn tại.
Vậy thì chuyện
bày ra cúng kiếng linh hồn, tức là mời mọc linh hồn trở về trần gian để ăn uống
là phi lý, là mâu thuẫn. Nếu những linh hồn nầy đang tu hành với Trời Phật nơi
cõi giới tâm linh để cầu được yên bình, hay giải thoát, mà chúng ta lại cứ mời
về ăn uống rượu thịt đủ thứ hoài hoài thì vô tình chúng ta đã làm cản trở đường
tu hành giác ngộ của linh hồn, thì đó là chuyện không nên làm, muốn giải thoát
thì linh hồn phải cắt đứt mọi quan hệ trần gian, lúc sống nhiều người đã phải
lo toan đủ thứ chuyện, nào vợ, nào con, nào tiền, nào bạc, nào nhà cửa, xe cộ,
tiếng tăm, tên tuổi, địa vị, tiếng xấu, tiếng tốt, khen chê, thương ghét của
người đời, khi chết rồi mà linh hồn còn phải bận bịu đủ thứ chuyện như vậy nữa
thì làm sao mà siêu thoát được.
Còn có điều đáng
nói hơn nữa là, nhân ngày lễ Giỗ, thân nhân, con cháu, gia đình thường van vái
linh hồn người chết phù hộ cho gia đình được đủ thứ điều chuyện tốt lành, như là
được khoẻ mạnh, nếu có ôm đau thì mau bình phục, nếu có tai hoạ thì nhờ linh hồn
giải trừ, nếu có rủi ro thì nhờ linh hồn che chở, nếu có buôn bán thì nhờ linh
hồn giúp mua may bán đắt, nếu mua vé số thì cầu linh hồn cho trung số, nếu có
cho vay thì cầu linh hồn đi đòi nợ dùm! Đây là chuyện rất phi lý, khi còn sống,
thì đây chỉ là người rất bình thường, không có tài ba pháp thuật gì, vậy mà khi
chết, thân nhân, gia đình lại thờ phượng, van vái, cầu xin linh hồn đủ thứ.
Thực
tế khả năng linh hồn rất hạn chế, linh hồn chỉ có thể thực hiện được một số rất
ít những điều thân nhân cầu xin, như trường hợp linh hồn ông già tóc bạc, mà bà
xã tôi đã gặp trong câu chuyện kể trên, không phải linh hồn ông lão ăn uống được
những thứ ông Nhạc Gia tôi cúng kiếng, nhưng mà linh hồn ông đã chấp nhận lời cầu
xin cho bà xã tôi được ở trên nền mã của ông, không còn hiện lên la mắng đuổi xô
nữa, linh hồn chỉ có thể làm được những việc như vậy thôi.
Linh hồn là
vật thể vô hình, siêu hình, là thể phi vật chất, vật thể không thể nhìn, không
thể ngó, không thể thấy, không thể sờ nắm, đụng chạm tới được, trừ khi là chiêm
bao, còn ý nghiã đích thực câu “linh hồn siêu thoát” không phải là cái gì ghê gớm,
cao siêu lắm, huyền bí lắm, như chúng ta tưởng, không phải là chuyện lên trời
xuống đất gì cả, mà thực tế chỉ có nghiã là “linh hồn tan biến thành cát bụi,
hư vô”. Cho nên, nếu như lời cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thoát
của chúng ta mà linh ứng thực sự, thì có nghiã là linh hồn đó không còn nữa, mà
khi đã không còn linh hồn nữa, thì những chuyện cúng kiếng, lễ giỗ, cho linh hồn
là phi lý, là những chuyện làm vô bổ, những việc làm không cần thiết.
Nói chung
thì như vậy, nhưng về chi tiết thì có rất nhiều chuyện quan trọng và cần thiết,
cần bàn quanh những chuyện cúng kiếng, lễ giỗ, ma chay… cho người chết, theo
phong tục tập quán của người Việt Nam, như chuyện nơi cúng, ngày giỗ, thắp
nhang, đốt giấy tiền vàng bạc, đồ hàng mã, cúng chay, cúng mặn….Với người Việt
hải ngoại thì chuyện cúng kiếng, lễ giỗ ông bà cha mẹ đành phải tổ chức ở nước
ngoài, như vậy thì ngày cúng giỗ, linh hồn ông bà cha mẹ có về dự với con cháu
hay không?. Cái nầy thì chắc chắn là không rồi, bởi vì linh hồn không có khả
năng đi xa như vậy, cho nên lễ Giỗ chỉ có những ý nghiã, lợi ích nào đó cho người
sống chớ không phải cho người chết, cho nên dù ta có cúng kiếng chỗ nào, cúng
Giỗ ngày nào, cúng Giỗ ra sao, cúng chay, cúng mặn gì cũng được cả, không nên câu
nệ ngày giờ như nhiều người đã làm, để thuận tiện, ở đây người thường chọn ngày
cuối tuần cho tiện, cái nầy cũng không sao.
Về chuyện nơi
chốn cư ngụ của linh hồn không siêu thoát, dù bao nhiêu năm, như câu chuyện ông
già tóc bạc vừa kể trên đây, linh hồn không siêu thoát cũng chỉ quanh quẩn nơi
chôn cất thân xác mà thôi, dù cho thân xác đã mục rửa, chỉ còn lại mớ xương tàn
thì linh hồn người chết cũng vẫn quanh quẩn nơi chôn cất, không đi nơi khác. Bản
thân tôi cũng đã từng gặp một người đã chết khoảng 50 năm trước rồi, nhưng linh
hồn vẫn chưa siêu thoát, vẫn còn tồn tại nơi chôn cất, không tan biến và không
đi đâu được, cho tới khi được lấy cốt di dời đi nơi khác, thì linh hồn mới theo
đi đến nơi chôn cất mới.
Cần ghi nhận
thêm điểm nầy nữa là nếu khi chết là một người già thì hồn ma hiện lên là một
người già, còn khi chết là một người trẻ thì hồn ma, dù bao nhiêu năm, vẫn là một
người trẻ, như hồn ma tôi đã gặp, nếu tính thời điểm tôi gặp, thì người nầy phải
là một bà già tóc bạc, lưng còng, nhưng mà hồn ma tôi gặp thì vẫn chỉ là một cô
gái trẻ 20, tóc dài đen nhánh, ngay cả bộ quần áo người nầy mặc khi chết cũng
không thay đổi, vẫn là một bồ đồ bà ba đen của một cô gái Việt Nam vùng quê Nam
Bộ năm 1940! Cho dù thân nhân có cúng đốt bao nhiều bộ quần áo mới cũng vô ích,
hồn ma cũng không thể mặc được những thứ quần áo bằng hàng mã do người sống cúng,
cho nên việc đốt hay không đốt những đồ hàng mã cho người chết cũng vậy, cũng đều
vô ích mà thôi, có đốt giấy tiền vàng bạc linh hồn cũng không xài được.
Có trường hợp
đặc biệt về chuyện di chuyển đi nơi khác của linh hồn người chết, đó là chuyện một
linh hồn từ Việt Nam đi qua Mỹ, rồi từ Mỹ đi qua Úc, nhưng linh hồn nầy không tự
nó đi được mà phải đi nhờ vào một vật thể nào đó. Trường hợp linh hồn vừa nói
thì nó đã nhập vào một chiếc vòng cẩm thạch đeo tay mà lúc sống thể xác nó đã rất
yêu thích, chiếc vòng nầy được một Việt kiều từ Mỹ về Việt Nam mua rồi mang
sang Mỹ, sau đó người nầy lại bán chiếc vòng ngọc nầy cho một Việt Kiều Úc, kết
qủa là linh hồn của một người ở Việt Nam đã được đi qua Úc và nhập vào thân xác
người Việt Kiều Úc.
Câu chuyện linh
hồn kỳ lạ nầy vẫn chưa dừng lại ở đây, vì một linh hồn người Việt Nam, có lẽ là
ở nhà quê, và ở thời đại cả 100 năm trước, bây giờ đến Úc bơ vơ một mình thì
làm sao mà sống nổi, linh hồn người Việt Nam nầy không thích hợp về tất cả mọi
thứ, thời tiết, khí hậu, ngôn ngữ, con người, xã hội ….. Cho dù là trong thế giới
tâm linh, thế giới của linh hồn cũng không khác gì mấy với thế giới con người, nghiã
là khi linh hồn người chết nầy phải sống với toàn những linh hồn xa lạ, những
linh hồn người Úc, người Anh, không cùng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, vân
vân, thì linh hồn cũng đau khổ, buồn rầu, tức giận…, cho nên linh hồn nầy đã
hành hạ thân xác người Việt Kiều Úc thành ra một người mắc bệnh tâm thần, một
người điên, tối ngày la hét, kêu gào….
Người bệnh tâm
thần nầy đã vào nằm điều trị bịnh tại một bệnh viện lớn và danh tiếng bậc nhất
của Úc trong thời gian dài mấy tháng liền, nhưng hoàn toàn không có chút kết qủa
nào, các Bác Sĩ thần kinh không thấy hệ thần kinh nào của người bịnh bị tổn
thương, các Bác Sĩ tâm lý không tìm thấy nguyên nhân tâm lý nào của người bệnh,
y học bó tay, duy chỉ có khả năng tâm linh ngành Nhân Điện của Thầy Đáng mới
giúp chữa trị được, chữa trị thật hiệu qủa, thật thần kỳ, và chữa trị thật nhanh chóng, bằng cách truyền
điện giúp linh hồn nầy siêu thoát chỉ trong vòng thời gian 30 giây!
Xin bổ túc phần nầy là nguyên tắc thì như vậy,
nhưng thực tế thì phải là Học Viên Nhân Điện thực sự có khả năng tâm linh mới
truyền điện có hiệu qủa, nghiã là linh hồn nầy mới siêu thoát, và người bịnh mới
hết bịnh, còn Học Viên Nhân Điện không thực sự có khả năng tâm linh, thì dù có
truyền điện cũng vô ích. Với Học Viên Nhân Điện có năng lực tâm linh cao, chỉ cần
có sự hiện diện của người nầy bên cạnh bệnh nhân thôi, thì cũng đủ giúp cho bệnh
nhân lập tức khỏi bệnh, không cần phải truyền điện, cầu nguyện, hay chữa trị gì
cả, cho nên cái khó là phải tìm cho được người Học Viên Nhân Điện có khả năng
tâm linh thực sự để giúp đỡ cho bệnh nhân.
Không phải
người nào học Nhân Điện cũng có khả năng tâm linh, có rất nhiều người học Nhân điện,
nhưng có rất ít người có khả năng tâm linh, cũng xin đừng lầm lẫn giữa người Học
Viên Nhân Điện có khả năng tâm linh, với người Học viên Nhân Điện học cấp lớp
cao, hai người Học Viên Nhân Điện nầy hoàn toàn khác nhau. Khả năng tâm linh của
một Học Viên Nhân Điện không tùy thuộc cấp lớp Nhân Điện cao thấp, đúng hơn là
chỉ tùy thuộc một cách rất tương đối, như là có sự khác biệt ở cách thức trị bịnh,
như là Học Viên cấp thấp trị bịnh cần đặt tay, cần gặp mặt bệnh nhan, cần biết
rõ bệnh nhân bệnh gì, mỗi lần chỉ trị được một bệnh nhân, còn Học Viên cấp cao thì
có thể dung Luân Xa 6 để trị bịnh, không cần đặt tay, thậm chí không cần gặp mặt
bệnh nhân, không cần biết bệnh nhan bị bệnh gì, có thể cùng lúc trị bệnh được
cho nhiều bệnh nhân, như Thầy Đáng, cùng lúc Thầy Đáng có thể truyền điện cho cả
lớp học 1, 2 ngàn Học Viên, có đủ thứ bệnh hoạn khác nhau, mà vẫn hiệu quả, kết
quả như thường, cái đó gọi là Nhân điện cao cấp, khác hơn là Nhân Điện Sơ cấp.
Về Năng lực
tâm linh của Học Viên Nhân Điện, cái nầy không tùy thuộc trình độ học thức, điạ
vị xã hội của Học Viên, cũng không tùy thuộc vai trò, chức vụ, cấp bằng của Học
Viên Nhân Điện, cấp bằng Nhân Điện cũng chỉ có giá trị đối với người đời mà thôi,
không có cấp bằng Nhân Điện nào có giá trị tâm linh, không có cấp bằng Nhân Điện
nào có giá trị với Các Đấng, cấp bằng Nhân
Điện nào cũng vô nghiã đối với Thượng Đế, cho nên chúng ta không nên đánh giá năng
lực tâm linh của một Học Viên Nhân Điện qua bằng cấp Nhân Điện nào cả.
Khả năng tâm
linh của một Học Viên Nhân Điện tùy thuộc vào sứ mệnh tâm linh của riêng mỗi Học
Viên, sứ mệnh nầy do Thượng Đế giao phó cho mỗi người, Thượng Đế là người duy
nhất, không ai ngoài Thượng Đế có thể quyết định và ban phát cho Học Viên Nhân
Điện những quyền năng khả năng tâm linh. Quyền năng khã năng tâm linh của mỗi
người nặng nhẹ, nhiều ít, mạnh yếu, tùy thuộc vào sứ mạng tâm linh của mỗi người,
sứ mạng nầy do Thượng Đế định đoạt theo những chủ ý riêng tư của Thượng Đế, sứ
mạng nầy không tùy thuộc vào tên tuổi, điạ vị, tiếng tăm…. của người đó trong
xã hội, hay trong ngành Nhân Điện.
Xin bổ túc
và cũng xin đặc biệt lưu ý tất cả Học Viên Nhân Điện về những gì gọi là quyền
năng khả năng tâm linh của ngành Nhân Điện, đây là quyền năng khả năng của Thượng
Đế, không phải là quyền năng khả năng của bất cứ Học Viên Nhân điện nào. Dù ở bất
cứ cấp lớp Nhân điện nào, Học Viên Nhân Điện nào cũng chỉ là công cụ của Thượng
Đế, dù Học Viên đó có học tới cấp lớp Nhân Điện nào, có những thành tích trị bịnh
ra sao, có trị được bao nhiêu chứng bịnh, trị lành bao nhiêu người bịnh, Học Viên
Nhân Điện đó cũng chỉ là một con người bình thường, cũng đều không phải là Thần
Thánh.
Hôm nay người
Học Viên Nhân Điện có thể trị bịnh thật tài tình, nhưng ngày mai, tất cả mọi khả
năng trị bịnh của Học Viên Nhân Điện nầy có thể không còn nữa, có thể đều tan
biến, Nhân Điện không giống như những tri thức, kiến thức khả năng, tài nghệ khác
của con người, một nhạc sĩ có thể đánh đàn được cả đời, một hoạ sĩ có thể vẽ được
cả đời, nhưng một Học Viên Nhân Điện thì không như vậy, khi Thần Thánh không phò
trợ, khi Thượng Đế không giúp đỡ thì người Học Viên Nhân điện, dù đã học tới cấp
lớp Nhân điện nào, dù theo học Nhân điện bao nhiêu lâu, cũng sẽ không là gì cả,
cũng sẽ không có quyền năng khả năng tâm
linh gì hết.
Đặc biệt lưu
ý là Thượng Đế chỉ trao cho Học Viên Nhân Điện những quyền năng khả năng tốt
lành, thánh thiện, nhân từ để Học Viên Nhân Điện cứu người, giúp người mà thôi, Thượng Đế tuyệt đối không cho Học Viên Nhân Điện bất cứ
một thứ quyền năng khả năng tâm linh xấu ác nào để hại người, thậm chí để giết
chết một con vật nhỏ bé như con sâu, con kiến, cũng không được, thậm chí Học Viên
muốn giết chết cho dù là một con vật có hại như con ruồi, con muỗi cũng không
được.
Học Viên Nhân Điện nào làm ngược ý Thượng Đế, như là có ý xấu, có ý muốn
dùng năng lực tâm linh của Thượng Đế làm hại ai, làm hại bất kỳ là người nào,
thì Học Viên đó cũng sẽ bị “tẩu hoả nhập ma”, một hình thức điên loạn nào đó,
và sẽ phải mất hết năng lực tâm linh. Không cần phải có hành động hại người, chỉ
cần có ý tưởng làm hại người khác thôi, cho dù người đó là ai thì Học Viên nầy
cũng sẽ phải mất hết tất cả mọi thứ năng lực tâm linh của ngành Nhân Điện, và sẽ
không bào giờ được tha thứ, không thể nào được phục hồi năng lực.
Cho nên học
Nhân Điện, điều quan trọng không phải là học cấp lớp Nhân Điện nào, càng không
phải là học công thức Nhân Điện nào, Thầy Đáng thường nói rằng lớp Nhân Điện nào
cũng giả, công thức Nhân Điện nào cũng giả, chỉ có Giác ngộ - Từ Bi mới là thật,
mới là những bài học thực sự của ngành Nhân Điện, không học và hành 2 điều quan
trọng nhất của Nhân Điện là Giác Ngộ - Từ Bi thì đừng tính chuyện học tới cấp
lớp Nhân Điện nào cả, đừng mong áp dụng công thức Nhân Điện nào cả. Đừng bao giờ
tưởng rằng phải học tới cấp lớp Nhân điện cao thì mới có nhiều năng lực, đừng
bao giờ tưởng rằng công thức của cấp lớp Nhân Điện nầy cao hơn công thức của lớp
Nhân Điện kia, khi Thượng Đế giúp đỡ thì công thức nào cũng hữu hiệu, khi Thượng
Đế không phò trợ thì công thức nào cũng vô ích, cũng bằng không, cũng bằng thừa.
Có Giác Ngộ
- Từ Bi thì dù chỉ mới học lớp 1, mới có khai mở Luân Xa 30% thôi, thì Học Viên
nầy cũng vẫn có đầy đủ những quyền năng khả năng tâm linh để cứu người, giúp
người, thực tế thì chỉ cần 1% quyền năng khả năng của Thượng Đế thì cũng đã quá
đủ để làm nên tất cả mọi chuyện thần kỳ ở thế gian, đừng bao giờ nghĩ rằng phải
mở Luân xa 100% thì mới có quyền năng khả năng tâm linh. Điều quan trọng không
phải là học lớp Nhân Điện nào, lớp Nhân điện cao hay lớp Nhân Điện thấp, mở Luân
xa bao nhiêu phần trăm, ở lớp Nhân điện Cao cấp, Thầy đáng còn nói là Nhân Điện
không có Luân xa gì hết, Luân Xa gì cũng không cần, Luân xa chỉ là chuyện thầy đã
gạt ACE mà thôi, vậy mà nhiều Học Viên Cao cấp vẫn cứ quanh quẩn chuyện cấp lớp,
chuyện luân xa, chuyện công thức Nhân Điện.
Thứ thực sự
quan trọng, cái tối ư quan trọng, cần thiết, bắt buộc của ngành Nhân Điện không
phải là những cái nầy, những thứ nầy, mà là chuyện Học Viên có Giác ngộ- Từ Bi
hay không, nếu không có Giác - Ngộ - Từ Bi, thì dù Học Viên có học tới cấp lớp
Nhân Điện nào cũng vô ích, học công thức gì cũng không có quyền năng khả năng
tâm linh, hoàn toàn không, tuyệt đối không.
Linh hồn
không siêu thoát có thể bám nhập vào một vật thể nào đó như chiếc vòng đeo tay
trong câu chuyện kể trên, cũng có thể từ vật bám là chiếc vòng đeo tay rồi bám
sang người đeo chiếc vòng như trường hợp người Việt kiều bị điên loạn nầy. Có
trường hợp khác, linh hồn không siêu thoát đeo bám vào một chiếc vòng cổ của một
Việt kiều Úc ở Adelaide, hậu qủa là người Việt kiều nầy bị chứng bịnh tâm thần
và bại liệt một cánh tay trong thời gian dài đến 27 năm. Không một bác sĩ, nhà
thương nào trị liệu được, cho đến khi nhận được dòng điện tâm linh của một Học
Viên Nhân Điện thì người bịnh nầy lập tức khỏi bệnh tâm thần, cánh tay bại xụi
27 năm cũng trở nên bình thường như chưa hề bị bịnh.
Khi linh hồn
người chết bám nhập vào thân thể một người còn sống nào thì linh hồn nầy có thể
mang đến một số bệnh tật cho thân thể người đó, thông thường thì người nầy sẽ mắc
chứng bịnh tà ma nhập, tây y gọi là bịnh tâm thần chớ không chịu gọi là bịnh tà
ma, vì họ không tin người bịnh bị tà ma nhập, họ không tin có chuyện tà ma xuất
hiện trên đời nầy. Linh hồn người chết có thể làm cho người bị ám nhập điên loạn,
cũng có thể làm cho người bệnh bại xụi một cánh tay như câu chuyện người Việt
kiều Úc ở Adelaide.
Linh hồn người
không siêu thoát của người chết cũng có thể mang đến những chứng bịnh khác cho
người còn sống, những chứng bịnh mà y học y khoa Tây Phương dù là rất tài giỏi,
tài tình nhưng lại không thể nào tìm thấy nguyên nhân, và không thể nào chữa trị
được. Bản thân tôi đã từng có kinh nghiệm trong việc giúp đỡ cho một Việt Kiều
Mỹ bị chứng bịnh bại liệt cột sống lưng, tình trạng bệnh rất nặng, người bệnh không
thể nào đi đứng, cử động được, đã vào điều trị trong một bệnh viện rất tối tân
của Mỹ suốt nhiều tháng nhưng hoàn toàn không có kết qủa nào. Vậy mà ngay sau
khi tôi vừa đặt tay truyền điện cho bệnh nhân xong, chỉ cần thời gian 1 phút đồng
hồ, bệnh nhân đã lập tức khỏi bệnh, có thể tự mình đứng lên, tự mình đi đứng
bình thường như chưa hề bị bịnh bao giờ. Lý do là vì tôi đã truyền điện đưa
linh hồn người chết ám nhập bệnh nhân lên đường siêu thoát, trả lại nguyên trạng
thể xác cho bệnh nhân.
Cũng xin được
kể thêm trường hợp bịnh đặc biệt của một Việt kiều Mỹ khác, người nầy chỉ là bị
bệnh nhức đầu vậy thôi, nhưng không tìm thấy nguyên nhân, và không thể chữa trị
trong thời gian mấy năm liền, cho đến khi người bệnh được Bà Xã tôi truyền điện
vào 2 Luân Xa 5 & 7 thì lâậ p tưứ c
ngư ơờ I nâầ y khỏ I bêệ nh mà khô ng cần
phải thuốc men gì cả .( Ghi chú là lúc nầy
bà Xã tôi chỉ mới học xong lớp Nhân Điện cấp 5.1, thời gian 5 ngày tại Geneve,
Thụy Sĩ, cho nên áp dụng công thức trị bịnh bằng cách đặt tay vào 2 Luân xa 5 và
Luân xa 7 của bệnh nhân, khi đã học xong những lớp Nhân điện cao cấp thì chỉ cần
gặp mặt bệnh nhân là đủ, không cần phải đặt tay, hay phải làm gì cả).
Nguyên nhân khiến
cho người bịnh nầy uống thuốc nhức đầu gì cũng không hết nhức đầu, là vì người nầy
không phải bị một chứng bịnh nào đó thuộc thể xác, mà là một chứng bịnh thuộc về
nguyên nhân siêu hình, tâm linh, người nầy bị một vong linh người chết ám, đó
là người chồng trước của bệnh nhân, người chồng nầy chết bằng cách dùng súng bắn
vào đầu tự tử.
Bởi vì Linh
hồn người chồng tự tử nầy mà không siêu thoát, vẫn quanh quẩn bên người vợ vẫn
còn trẻ đẹp của ông ta, và linh hồn người chết nầy đã ghen tuông khi thấy người
vợ của mình lấy người chồng khác, cho nên, mỗi khi bà nầy lên giường ngủ với
người chồng mới, thì linh hồn người chồng cũ nhập vào, khiến cho bà vợ thấy nhức
đầu dữ dội, y như là bà bị một vết thương chí mạng, cực kỳ đau đớn ở trong đầu,
chính là vết thương do ông ta đã tự tử bằng cách dung sung bắn vào đầu, cho nên
cái chết nhẹ nhàng tự nhiên như khi đi ngủ là tình trạng chết lý tưởng của con
người, còn cái chết oan khiên, tức uất, đau buồn đau đớn, vân vân, là những cái
chết không tốt cho linh hồn. Sau khi linh hồn người chồng cũ nhận được dòng điện
tâm linh Nhân Điện để siêu thoát rồi, thì bà nầy mới hết chứng nhức đầu khi lên
giường ngủ với người chồng mới, đã nhiều năm qua rồi mà người nầy vẫn yên ổn,
không còn bị chứng nhức đầu nữa!
Nói thêm về
sự tồn tại của linh hồn bên thân xác người chết, dù thân xác nầy đã mục rửa hay
thời gian tồn tại mấy mươi năm, chính là vì điều nầy mà những nhà ngoại cảm ở
Việt Nam như bà Phan Thị Bích Hằng mới có thể giúp tìm ra xương cốt của những
người chết ở cả những nơi rừng núi hoang vu hằng bao nhiêu năm.
Người Ai Cập
cổ cũng tin sự tồn tại của linh hồn bên cạnh thân xác người chết, cho nên họ đã
nghĩ ra thuật ướp xác người chết, và qủa thật là họ đã thành công trong việc lưu
giữ xác chết, đã tồn tại đến nhiều ngàn năm. Nhưng việc ướp xác người chết để
lưu giữ cho xác chết không mục rửa đến mấy ngàn năm nầy của người Ai Cập cổ
không có ích lợi gì cho linh hồn người chết, bởi vì việc linh hồn quanh quẩn
bên thân xác đã chết, dù đã được ướp cho không thối rửa, thì cũng không có ích
lợi gì cho linh hồn, trái lại nó còn làm cho linh hồn người chết trở nên đau khổ,
vì khi thân xác đã nằm im bất động thì linh hồn không thể thực hiện được điều
gì theo ý muốn, ngay cả những việc thông thường nhất như là việc ăn uống cũng
không làm được.
Tuy nhiên
qua câu chuyện vừa kể trên, câu chuyện linh hồn người chết nhập vào chiếc vòng
ngọc đeo tay, thì chúng ta phải rất cảnh giác đối với những vật cổ, ở Trung Hoa
và gần đây ở cả Việt Nam cũng có nạn trộm đào những ngôi mộ cổ để chôm những đồ
vật qúi giá, nhất là đồ trang sức chôn theo người chết đem bán, phải nên coi chừng
chuyện linh hồn người chết có thể bám theo những đồ vật nầy để quấy phá làm hại
người xử dụng chúng như trường hợp câu chuyện người bị bịnh tâm thần do linh hồn
người chết xâm nhập trên đây.
Để linh hồn
người chết được siêu thoát, chúng ta thường làm những lễ cầu nguyện, cầu siêu
ngay khi người thân qua đời, chúng ta có thể làm rất nhiều thứ lễ nghi rườm rà,
tốn kém, nhưng vấn đề là sau khi chúng ta đã làm đủ thứ thủ tục, lễ nghi rườm
rà, tốn kém như vậy rồi, liệu linh hồn người chết có siêu thoát hay không, làm
sao chúng ta biết được là linh hồn người chết đã siêu thoát, và thực tế có nhiều
câu hỏi rất phức tạp, chúng ta không thể trả lời.
Vấn đề thứ nhất
là tại sao chúng ta phải cầu siêu cho linh hồn người chết được siêu thoát, bởi
vì, như chúng ta đã nói là nếu linh hồn không siêu thoát, thì linh hồn đó sẽ phải
chịu nhiều sự khổ sở, nhiều người cứ nghĩ rằng sống thì phải chịu nhiều cảnh khổ,
nhiều người nói “đời là bể khổ”, nhưng mà cái khổ đó mới chỉ là cái khổ của
thân xác, ngoài ra còn có cái khổ của linh hồn nữa, nghia là thực ra dù đã chết
rồi con người cũng chưa hết khổ đâu, mà có khi còn khổ hơn lúc còn sống nữa.
Có người
không chịu nổi cái khổ của thân xác trong đời sống con người, cho nên đã tìm
cái chết để mong được giải thoát cái khổ, mong được hết khổ, nhưng mà họ không
biết rằng cho dù có tránh được cái khổ của thân xác thì cũng không tránh được
cái khổ của linh hồn, một linh hồn không có thân xác nhưng vẫn còn phải vất vưởng
chốn trần gian, thì cũng có rất nhiều cái thống khổ, cho nên chúng ta mới cần
phải cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thoát, tức là linh hồn không
còn tồn tại chốn trần gian.
Nhưng vấn đề
không dừng lại ở đây, bởi vì thực tế chúng ta còn rất nhiều chuyện để phải bàn
luận tiếp về chuyện linh hồn siêu thoát, chuyện thứ nhất là làm sao để linh hồn
người chết được siêu thoát, thì như đã nói ở trên là khi thân xác còn đó, dù chỉ
còn là những khúc xương, thì linh hồn vẫn còn đó chưa siêu thoát, cho nên Thầy
Đáng nói rằng cách tốt nhất đối với người chết là nên hoả thiêu thân xác để
linh hồn không còn chỗ bám bíu, linh hồn sớm chấp nhận sự siêu thoát hay tái kiếp
đầu thai.
Chính là vì
bài dạy của thầy Đáng về cách thức mai táng tốt nhất cho người chết là hoả
thiêu, cho nên thân xác Thầy đáng đã được hoả thiêu chỉ 3 ngày sau khi Thầy
Đáng chết, còn tro cốt Thầy Đáng thì đã được đem rải xuống một vùng biển của Melbourne.
Cá nhân tôi có đề nghị là nên rải tro cốt Thầy Đáng trên sông Cái Bè, Mỹ Tho, là
quê hương mà Thầy Đáng lúc sinh thời rất là yêu mến, nhớ thương, điều nầy có rất
nhiều ý nghiã, nhưng rất tiếc là vì một số lý do đặc biệt, cho nên chuyện rải
tro cốt Thầy Đáng ở Cái bè đã không thực hiện được.
Trở lại chuyện
phong tục tập quán ngày Giỗ thì Thầy Đáng khuyên là trong ngày Giỗ không nên đốt
giấy tiền vàng bạc, Thầy Đáng thường nói câu: “Anh Chị Em đem tiền thiệt mua tiền
giả, đốt ra tro, linh hồn không hưởng được gì hết, chỉ có mấy anh Ba Tàu là lượm
được đồng tiền mê tín dị đoan của ACE để làm giàu, mà sơ ý để cháy nhà hàng xóm
là ACE còn phải mang hoạ, phải đền bồi mà còn phải đi tù nữa”. Nhiều Học Viên
Nhân Điện đã nghe theo bài học nầy của Thầy Đáng, đã không còn phải đốt giấy tiền
vàng bạc, đồ hàng mã tốn kém trong những buổi lễ cúng kiếng ông bà cha mẹ nữa,
xin mừng cho sự Giác Ngộ của những ACE Nhân Điện nầy.
Đấy là một
trong rất nhiều điều Thầy Đáng dạy trong những lớp học Nhân điện, một điều
không dính dáng gì tới chuyện trị bịnh, Thầy Đáng nói trị bịnh chỉ là 1% đối tượng
học hỏi của ngành Nhân Điện, cũng có thể nói trị bịnh chỉ là một phương tiện để
ACE biết và theo học ngành Nhân Điện, nói một cách khác thì trị bịnh chỉ là cái
giả, cũng có thể nói trị bịnh chỉ là cái Thầy Đáng đã gạt ACE mà thôi, còn cái
thật là cái quyền năng khả năng tâm linh, là cái quyền năng khả năng Thượng Đế.
Đây là những cái rất huyền bí, rất cao siêu, mà ACE dù có học hoài, học mãi
cũng không học hết, nhưng Thầy Đáng đã tóm gọn trong 3 từ ngữ tên gọi ngành học
Nhân Điện, mà ACE có thể hình dung để học hỏi, thực hành, đó là 3 chữ “Nhân Loại-
Giác Ngộ- Tình Thương”.
Khi ta học hỏi
được 3 điều căn bản “Nhân Loại- Giác Ngộ- Tình Thương” thì ta sẽ tự giải đáp được
rất nhiều câu hỏi, rất nhiều thắc mắc, rất nhiều vấn nạn trong kiếp sống con
người, thí dụ như câu hỏi của rất nhiều ACE Nhân Điện hiện nay là Thầy Đáng là
Tổ Sư của ngành Nhân Điện tại sao Thầy Đáng lại chết, nhiều Học viên Nhân Điện
mới cũ, cao cấp cũng đau bịnh, cũng chết. Nếu Giác Ngộ thì chúng sẽ biết rằng
chuyện Sinh lão bệnh tử là định luật của muôn loài, là qui luật của nhân loại,
không ai có thể làm trái những qui luật nầy, cho nên có học Nhân Điện hay không
học Nhân điện thì cũng đau, cũng bệnh, cũng chết như thường, Tổ Sư ngành Nhân
Điện như Thầy Đáng cũng đau bệnh, cũng chết như thường.
Cho nên,
chúng ta học Nhân Điện không phải để không đau, không bệnh, không chết, mà mục đích
học Nhân điện thực sự là để trở thành
người Giác Ngộ- Từ Bi, khi Giác Ngộ từ bi thì chúng ta sẽ biết mình phải làm gì
khi sống, mình sẽ ra sao khi chết, khi sống người Học viên Nhân Điện chân chính
chắc chắn giúp ích được cho bản thân, gia đình, xã hội, con người, khi chết
linh hồn người Học Viên Nhân Điện chân chính sẽ được siêu thoát, hoặc là đầu
thai tái kiếp làm người.
Không có
chuyện thân xác con người trường sinh bất tử, bạo chúa như ông Vua Tàu là Tần
Thủy Hoàng cũng không làm được chuyện nầy, mấy ông Vua Ai Cập Cổ đại, những
Pharaoh Đại Đế cũng không thể sống trường sinh bất tử, ông Phật, ông Chúa gì
cũng chết, cho nên ông Thầy Đáng của chúng ta cũng đau bệnh cũng chết, thì cũng
không có gì là lạ, không có chuyện thể xác con người trường sinh bất tử, chỉ có
linh hồn bất tử. Nhưng, chúng ta cũng phải cần biết rõ rằng cách thức bất tử
duy nhất của linh hồn là tái kiếp đầu thai làm người, ngoài cách tái kiếp đầu
thai làm người trở lại, thì tuyệt đối không còn cách thức trường sinh bất tử
nào khác.
Cho dù có tu
hành bao nhiêu năm, cho dù là công quả công đức thế nào, ra sao, thì cũng không
hề có chuyện linh hồn được về một nơi chốn gọi là Thiên Đàng, hay Niết Bàn, như
người đời vẫn nghĩ, vẫn nói, không có một nời linh hồn được vĩnh viễn yên vui, trường
sinh bất diệt, bất tử. Không hề có một nơi chốn nào, ở đâu như vậy, nếu có một
nơi chốn bình yên cho linh hồn, thì nơi đó cũng chỉ là nơi chốn tạm dung, nơi
chốn linh hồn chờ đợi đầu thai tái kiếp làm người, chớ không phải là nơi chốn cư
trú vĩnh viễn, nơi chốn trần gian hay nơi chốn tâm linh, nơi chốn nào cũng là
chỗ ở tạm thời, không có nơi chốn cư trú vĩnh viễn, không có cái gì là trường tồn, không
có cái gì là mãi mãi, không có cái gì là muôn năm.
Tái kiếp, đầu
thai theo luật Thượng Đế là phải đầu thai vào thân xác một hài nhi bé nhỏ mới
sinh ra đời để có thể làm lại một kiếp con người khác, tuyệt đối không có chuyện
linh hồn ám nhập vào thân xác một người còn sống nào đó, cái nầy Thượng Đế
không cho phép, không một ai có quyền làm trái qui định đầu thai theo luật tự
nhiên của Thượng Đế, Học Viên Nhân Điện nào dám nói linh hồn Thầy Đáng nhập vào
thân xác mình để ra quyền nầy, phép nọ, để nói điều nầy, để dạy điều nầy, là người
đó dối gạt Anh Chị Em, người đó dối gạt người đời, dối gạt thế gian. Chúng ta
không nên tin nghe những người dối gạt nầy, chúng ta nói hoài chữ Giác Ngộ, nhưng
quan trọng là chúng ta phải thực hành Giác Ngộ, tức là phải hiều biết những điều
nầy, phải biết những cái hay dở, đúng sai, thiệt giả, xấu tốt, thì mới gọi là
Giác Ngộ.
Linh hồn tái
kiếp đầu thai là luật chung cho mọi linh hồn, trường hợp Thầy Đáng thì có phần
đặc biệt, khác thường, mà Học Viên Nhân Điện rất cần nên lưu ý, là ở Thầy Đáng
có tới 2 thứ linh hồn hoàn toàn khác biệt nhau, một linh hồn của thể xác Giáo Sư,
Thầy Lương Minh Đáng thì hoàn toàn giống như tất cả mọi linh hồn con người bình
thường khác, linh hồn nầy ở cùng thể xác Thầy Đáng từ khi Thầy Đáng là một đứa
bé mới sanh ra năm 1942, tại làng quê Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, xứ Việt Nam, cho tới
khi Thầy Đáng qua đời tại Melbourne, Australia, năm 2007, năm Thầy Đáng hưởng
thọ 65 tuổi.
Trên nguyên
tắc, thì ngay sau khi Thầy Đáng qua đời, thân xác Thầy Đáng chết, nhất là sau
khi thân xác Thầy Đàng đã hoả thiêu rồi sau đó là tro cốt Thầy Đáng đã được rải
xuống lòng biển Melbourne, thì linh hồn của thể xác 65 tuổi của Thầy Đáng đã siêu
thoát, và bây giờ thì chắc là linh hồn Thầy Đáng nầy đã đầu thai tái kiếp trong
thân xác một hài nhi nào đó, ở đâu đó, có
thể là linh hồn Thầy Đáng hiện nay vẫn ở chốn trần gian nhưng điều chắc chắn là
linh hồn thầy Đáng không ở trong thân xác một Học Viên Nhân Điện nào cả, không
thể có chuyện nầy, ai dám nói linh hồn thầy Đáng ở trong, hay hội nhập thân xác
của họ thì đó chỉ là lời nói láo, chỉ là chuyện dối gạt Anh Chị Em mà thôi, chúng
ta cần phải giác ngộ chuyện nầy.
Nhưng ngoài
cái linh hồn của một con người bình thường đã siêu thoát, hoặc đã đầu thai tái
kiếp, thì Thầy Đáng vẫn còn có một linh hồn khác, đó là linh hồn Các Đấng tâm
linh cao cả đã phò trợ cho Thầy Đáng trong cuộc hành trình Nhân Điện khoảng 20
năm cuối đời của Thầy Đáng. Để phân biệt với linh hồn của người thường, chúng
ta gọi đây là Linh Hồn Các Đấng, hoặc giản dị là Linh Hồn Nhân Điện, thì tính
chất của linh hồn nầy là phi thời gian, phi không gian, đây là linh hồn tâm
linh, linh hồn vũ trụ, linh hồn muôn năm muôn đời, và là linh hồn nầy có những
quyền năng khả năng tâm linh kỳ diệu, có vận tốc ánh sáng, có khả năng phân thân,
như ánh sáng mặt trời, ánh sáng vì sao, năng lượng vũ trụ, cùng lúc các loại ánh
sang, năng lượng nầy có thể lan toả đến muôn chốn, muôn nơi, chiếu khắp mọi vật,
mọi người.
Điểm đặc biệt
khác cần lưu ý là linh hồn Các Đấng, cũng giống như là đức Phật, đức Chúa, linh
hồn nầy chỉ quan tâm và chỉ biết có nhân loại, chỉ có chúng sinh, chớ không có
thân nhân, không có bè bạn, không có vợ con, không có anh em, không có gia đình
cá biệt, riêng tư, cái gì cá biệt, cái gì riêng tư, cái gì là vợ con, cái gì là
gia đình, cái đó không phải là linh hồn Các Đấng, không phải là linh hồn Thần
Thánh, không phải linh hồn Nhân điện, không phải Tâm Linh. Đã có thời gian linh
hồn Các Đấng phò trợ Thầy Đáng để Thầy Đáng dạy học, để Thầy Đáng cứu người, giúp
người, để Thầy Đáng khai sáng và truyền bá ngành học tâm linh Nhân Điện trong
khoảng 20 năm.
Bây giờ, mặc
dù thể xác Thầy Đáng không còn nữa, linh hồn con người thường của Thầy Đáng thì
không còn nữa, nhưng Linh hồn Các Đấng thì vẫn còn, và còn tồn tại vĩnh viễn, tồn
tại muôn năm, tồn tại muôn đời, tồn tại muôn nơi, và tồn tại cho tất cả mọi người,
không phải là tồn tại cho riêng ai, không cho bất kỳ ai, cho nên các Học Viên
Nhân điện vẫn còn có thể tiếp tục học hỏi, học hành Nhân Điện với linh hồn vô hình
của Các Đấng, khi Học Viên Nhân Điện được khai mở Luân xa, có nghiã là Học Viên
đã liên lạc được với linh hồn Các Đấng.
Có người mới
vừa học được Nhân Điện lớp 1, mới vừa được khai mở Luân xa, dù chỉ mới 30%, là đã
có thể đặt tay lên người bệnh nhân để trị bịnh cứu người, cái đó là do linh hồn
Các Đấng đã đến tiếp xúc, phò trợ cho Học Viên làm những việc công qủa công đức.
Khi Anh Chị Em muốn học Nhân điện thuần túy để cứu người, giúp người thì Linh Hồn
Các Đấng nhất định sẽ phò trợ ACE, Linh hồn các Đấng nhất định sẽ giúp đỡ cho
những ai tiếp tục công việc Nhân điện cứu người, giúp đời mà Thầy Đáng ra đi còn
để lại, vẫn còn dở dang, vẫn chưa hoàn thành.
Để cứu giúp
con người, Linh Hồn Các Đấng sẽ phò trợ cho tất cả những ai, Các Đấng phò trợ con
người không phân biệt thân sơ, Các Đấng sẵn sàng ban phát những quyền năng khả
năng tâm linh huyền diệu của Các Đấng cho ACE, nhưng bắt buộc phải có điều kiện,
không phải là chuyện tiền bạc, Các Đấng không cần tiền, cái mà Các Đấng cần ở
ACE là nhân nghiã, đạo đức, là bác ái, Từ Bi, là minh triết, Giác ngộ, chớ không
phải là tiền bạc.
Nói cách khác
thì Các Đấng luôn luôn sẵn sàng phò trợ, giúp đỡ cho Anh Chị Em, tất cả Anh Chị
Em, nhưng có điều kiện, và điều kiện của Các Đấng thì lại rất khó khăn: phải giác
ngộ mới mong có quyền năng tâm linh, phải có tình thương mới mong có khả năng tâm
linh. Đây là những điều kiện căn bản, những điều kiện bắt buộc để trở thành Học
viên Nhân Điện, không có những điều kiện căn bản Giác Ngộ - Tình Thương, thì đừng
mong muốn học Nhân Điện làm gì, cũng đừng mong mõi học tới cấp lớp Nhân Điện nào
cả.
Thái Tấn
Truyền