Chiến dịch vùng xám của Trung Quốc chống lại Đài Loan đang phản tác dụng
Nguồn: David Sacks, "China's Gray-Zone Offensive Against
Taiwan Is Backfiring," Foreign Affairs, 08/11/2024 . Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Washington và Đài Bắc phải chuẩn bị cho sự leo thang tiếp theo
Giữa tháng 10, Trung Quốc lại tiến hành một đợt
tập trận quân sự quy mô lớn khác ở Eo biển Đài Loan, bao gồm cả việc diễn tập
phong tỏa các cảng của Đài Loan. Lần này, nguyên nhân là một loạt các bình luận
không đáng chú ý của Tổng thống Lại Thanh Đức nhân dịp Quốc khánh Đài Loan vài
ngày trước đó. Bắc Kinh "không có quyền đại diện cho Đài Loan," Lại
khẳng định, mô tả Đài Loan là nơi "dân chủ và tự do đang phát triển thịnh
vượng." Dù Lại không đưa ra dấu hiệu nào cho thấy ông sẽ theo đuổi nền độc
lập hoặc tìm cách thay đổi vị thế quốc tế của Đài Loan, nhưng Bắc Kinh đã sử
dụng những phát biểu của ông như một cái cớ mới để tăng cường áp lực.
Trong hai năm qua, các cuộc tập trận quân sự
lớn của Trung Quốc quanh Đài Loan đã chuyển từ hiếm hoi sang gần như thường lệ.
Bắc Kinh đã phát động các cuộc tập trận lớn sau khi cựu Chủ tịch Hạ viện Mỹ
Nancy Pelosi đến thăm hòn đảo vào tháng 8/2022; khi người tiền nhiệm của Lại,
Thái Anh Văn, dừng chân ngắn ngủi tại Mỹ vào tháng 4/2023; và một lần nữa sau
lễ nhậm chức của Lại vào tháng 5/2024. Nhưng thay vì xem chúng là các hành động
biệt lập nhằm phản ứng với các sự kiện cụ thể, các cuộc tập trận quân sự cấp
cao này nên được xem như một thành phần cốt lõi trong chiến dịch lớn hơn của
Trung Quốc về các hoạt động "vùng xám" chống lại Đài Loan – các hoạt
động cưỡng bức nằm dưới ngưỡng của lực lượng vũ trang. Là một phần trong các
chiến thuật này, Trung Quốc đã áp thuế quan và cấm vận đối với hàng xuất khẩu
của Đài Loan, tìm cách tăng cường cô lập Đài Loan trên trường quốc tế, và sử
dụng các chiến dịch thông tin sai lệch và tấn công mạng nhằm gây bất ổn cho
người dân và chính phủ của hòn đảo.
Mục tiêu cuối cùng là buộc Đài Loan phải chấp
nhận thống nhất. Trong kịch bản lý tưởng của Trung Quốc, người dân Đài Loan sẽ
nhận ra áp lực tích tụ của các hoạt động vùng xám này là không thể chịu đựng
được và cuối cùng sẽ đầu hàng, cho phép Bắc Kinh giành quyền kiểm soát hòn đảo
mà không cần phải bắn một phát súng nào. Ngay cả khi không đạt được những mục
tiêu tối đa này, giới lãnh đạo Trung Quốc hy vọng sẽ làm xói mòn lòng tin vào
Đảng Dân Tiến (DPP) cầm quyền của Lại Thanh Đức và gieo rắc sự chia rẽ trong xã
hội Đài Loan, bao gồm cả việc đặt ra câu hỏi liệu Mỹ có bảo vệ Đài Loan trong
trường hợp Trung Quốc phong tỏa hoặc xâm lược hay không.
Tuy nhiên, rõ ràng là các hoạt động vùng xám
của Trung Quốc đang phản tác dụng. Mối đe dọa mà Trung Quốc dùng để biện minh
cho chiến dịch của mình – một nỗ lực giành độc lập của Đài Loan – thực chất
không tồn tại: người dân Đài Loan ủng hộ nguyên trạng và hiểu rằng việc theo
đuổi độc lập sẽ khiến các đối tác quốc tế xa lánh họ, đồng thời tăng khả năng
bị Trung Quốc tấn công. Vì lẽ đó, các hành động của Trung Quốc chỉ củng cố
quyết tâm chống lại sự thống nhất ở Đài Loan, khiến Bắc Kinh càng có khả năng
phải dùng đến vũ lực để đạt được mục tiêu của mình. Do đó, Đài Loan và Mỹ nên
tiếp tục tập trung vào răn đe – và nếu cần, là đánh bại – cuộc phong tỏa hoặc
xâm lược của Trung Quốc. Và họ nên phản ứng với các hành vi vùng xám hung hăng
bằng cách áp đặt cái giá lên Trung Quốc, từ đó làm thay đổi tính toán của Bắc
Kinh đối với một cuộc xâm lược hoặc phong tỏa. Để ngăn chặn xung đột nóng, cần
phải giành chiến thắng trong xung đột lạnh. Nói một cách đơn giản, Washington
và Đài Bắc cần tự mình khai thác vùng xám.
MẬT ONG VÀ GIẤM
Chiến lược thống nhất với Đài Loan của Trung
Quốc luôn dựa trên sự kết hợp giữa khuyến khích và đe dọa – một lời cầu hôn
dưới họng súng. Bắc Kinh đã cố gắng chứng minh cho người dân Đài Loan thấy lợi
ích của một quan hệ chính trị và kinh tế chặt chẽ hơn với đại lục, và cái giá
phải trả cho sự xa lánh. Những lời đề nghị của Trung Quốc ngọt ngào nhất là
trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2016, dưới thời chính quyền của Tổng thống
Đài Loan Mã Anh Cửu, người mà đảng của ông, Quốc Dân Đảng, đã kiên quyết bác bỏ
nền độc lập của Đài Loan và ủng hộ một cách tiếp cận tương đối hòa giải với Bắc
Kinh, dựa trên cái gọi là Đồng thuận năm 1992 – một khuôn khổ mơ hồ trong đó cả
hai bên đều đồng ý rằng có "một Trung Quốc" nhưng không đồng ý về
cách định nghĩa nó. Trong giai đoạn này, Bắc Kinh và Đài Bắc đã ký hơn hai chục
thỏa thuận về mọi thứ, từ thương mại đến trao đổi giữa người với người. Tuy
nhiên, vào năm 2016, Mã đã được kế nhiệm bởi Thái Anh Văn của Đảng Dân Tiến,
vốn xem Đài Loan là một quốc gia độc lập và có chủ quyền, với tên gọi chính
thức là Trung Hoa Dân quốc. Dù trong bài phát biểu nhậm chức của mình, Thái có
đề xuất một công thức cho quan hệ xuyên eo biển thỏa mãn ý tưởng "một
Trung Quốc," nhưng bà đã từ chối công khai xác nhận Đồng thuận năm 1992.
Kể từ đó, cách tiếp cận của Trung Quốc ngày càng trở nên thù địch hơn, đặc biệt
là trong vài năm trở lại đây.
Kể từ cuối năm 2020, máy bay của Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc đã bay qua vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan –
một vùng đệm bên ngoài không phận của hòn đảo – gần như hàng ngày. Sang năm
2022, máy bay Trung Quốc bắt đầu thường xuyên bay qua đường trung tuyến ở Eo
biển Đài Loan, vốn là ranh giới mà cả hai bên đã tôn trọng trong hơn nửa thế kỷ
trước đó. Trung Quốc đã tăng dần mức độ phức tạp của các nhiệm vụ này, cũng như
mức độ gần gũi của chúng với lãnh thổ Đài Loan. Trước đây, Hải quân Quân Giải
phóng Nhân dân chỉ thỉnh thoảng hoạt động ở vùng biển gần Đài Loan; ngày nay,
họ bố trí các tàu chiến xung quanh hòn đảo này gần như liên tục. Kết quả là, theo
lời của tư lệnh hải quân Đài Loan, các lực lượng Trung Quốc đã "sẵn sàng
phong tỏa Đài Loan bất cứ lúc nào họ muốn."
Trung Quốc cũng nhắm vào Đài Loan về mặt kinh
tế, cố gắng gây chia rẽ trong xã hội bằng cách trừng phạt các ngành công nghiệp
thường nằm ở các thành phố ủng hộ DPP. Hồi tháng 5, họ tuyên bố sẽ khôi phục
hàng rào thuế quan đối với 134 mặt hàng nhập khẩu từ Đài Loan, và đến tháng 9
thì đã thêm 34 sản phẩm khác vào danh sách đó. Bắc Kinh cũng đe dọa và phạt
tiền các công ty con có trụ sở tại Trung Quốc của các công ty Đài Loan mà họ
tin là ủng hộ DPP, và gây sức ép buộc các công ty Đài Loan có hoạt động tại
Trung Quốc phải công khai tuyên bố ủng hộ đại lục.
Về mặt chính trị, Trung Quốc đang tiếp tục cố
gắng cô lập Đài Loan. Họ đã thành công trong việc cấm Đài Loan khỏi nhiều tổ
chức thế giới, bao gồm Tổ chức Y tế Thế giới, Interpol, và Tổ chức Hàng không
Dân dụng Quốc tế. Gần đây hơn, họ đã bắt tay vào một nỗ lực bền bỉ nhằm thuyết
phục các quốc gia và tổ chức toàn cầu tuyên bố rằng Đài Loan là một phần lãnh
thổ của Trung Quốc và ủng hộ những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm đạt được sự thống
nhất. Trong một ví dụ đáng chú ý, xảy ra sau lễ nhậm chức của Lại Thanh Đức,
Nauru, một quốc đảo nhỏ bé ở Micronesia, đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài
Loan. Đây không phải là lần đầu tiên một quốc gia "lật mặt sang" Bắc
Kinh bằng cách cắt đứt quan hệ với Đài Bắc, nhưng đây là lần đầu tiên một quốc
gia như vậy công nhận rõ ràng rằng "Chính phủ [Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa] là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho toàn bộ Trung Quốc, và Đài
Loan là một phần không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc." Trong cuộc
chiến quan điểm này, Trung Quốc đang cố gắng thiết lập một nền tảng rằng những
bất đồng giữa Bắc Kinh và Đài Bắc cấu thành một vấn đề nội bộ. Nếu quan điểm
này được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới, Bắc Kinh có thể lập luận rằng
bất kỳ hành động sử dụng vũ lực nào cũng không vi phạm luật pháp quốc tế, khiến
Mỹ khó có thể dẫn đầu một phản ứng.
Vào tháng 6, Trung Quốc đã công bố các hướng
dẫn pháp lý mới nhắm vào các nhà hoạt động vì độc lập của Đài Loan; những tội
danh được liệt kê, một số có thể bị tử hình, bao gồm thúc đẩy Đài Loan tham gia
các tổ chức quốc tế mà tư cách nhà nước là một yêu cầu bắt buộc. Vài tháng sau,
một tòa án Trung Quốc đã kết án một nhà hoạt động chính trị Đài Loan đã chuyển
đến sống ở Trung Quốc nhưng trước đó từng vận động cho việc Đài Loan tham gia
Liên Hiệp Quốc, tuyên án ông 9 năm tù. (Trung Hoa Dân quốc vốn là thành viên
sáng lập của Liên Hiệp Quốc, đại diện cho "Trung Quốc" ngay cả sau
khi chính phủ của nước này chạy trốn sang Đài Loan. Tuy nhiên, vào năm 1971,
Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu chuyển đại diện sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
Đài Loan đã không có mặt trong cơ quan này kể từ đó.) Trung Quốc cũng tiếp tục
trừng phạt các quan chức Đài Loan – bao gồm cả phó tổng thống và cố vấn an ninh
quốc gia hiện tại – và những công dân mà họ cho là ủng hộ độc lập.
Đài Loan hiện là mục tiêu của các cuộc tấn công
thông tin sai lệch từ bên ngoài nhiều hơn bất kỳ nền dân chủ nào khác, và Trung
Quốc thực hiện phần lớn các chiến dịch thông tin quy mô lớn chống lại hòn đảo
này. Ngoài ra, các chiến dịch của Bắc Kinh còn ngày càng tinh vi: trước thềm
cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất của Đài Loan, những tác nhân có liên hệ với
chính phủ Trung Quốc đã sử dụng trí tuệ nhân tạo để tạo ra các đoạn âm thanh và
video giả mạo của các nhà lãnh đạo chính trị Đài Loan. Trong những năm gần đây,
Trung Quốc cũng đã cố gắng gieo rắc sự hoài nghi về Mỹ trong cộng đồng người
dân Đài Loan. Vì thế, một quan điểm mới đã xuất hiện: một cuộc thăm dò vào
tháng 9/2023 của một viện nghiên cứu hàng đầu Đài Loan cho thấy chỉ có 34%
người Đài Loan coi Mỹ là đối tác đáng tin cậy, giảm 11 điểm phần trăm kể từ năm
2021. Dù đây là một xu hướng đáng lo ngại, nhưng sự hoài nghi ngày càng tăng
của người Đài Loan đối với Mỹ vẫn không chuyển thành mong muốn thống nhất lớn
hơn với Bắc Kinh.
THÉP CỨNG
Chiến dịch vùng xám của Trung Quốc, nhằm mục
đích giúp đạt được sự thống nhất, thay vào đó lại đẩy Đài Loan ra xa hơn. Nó đang
thúc đẩy niềm tin ngày càng lớn trong số người Đài Loan rằng Trung Quốc là kẻ
thù, và nâng cao nhận thức trong dân chúng rằng xung đột là một khả năng có thể
thực sự xảy ra. Người dân Đài Loan cũng xem cuộc đàn áp dân chủ của Bắc Kinh ở
Hong Kong là điềm báo về số phận có thể xảy ra cho họ sau khi thống nhất, nên
họ càng quyết tâm ngăn chặn điều đó xảy ra. Hiện tại, theo một cuộc thăm dò kéo
dài của Đại học Quốc lập Chính trị ở Đài Bắc, có chưa đến 7% người Đài Loan
mong muốn thống nhất với Trung Quốc tại bất kỳ thời điểm nào. Sáu năm trước,
con số đó cao gấp đôi.
Thay vì khuất phục trước áp lực từ Trung Quốc,
Đài Loan đang củng cố quyết tâm của mình, một phần được truyền cảm hứng từ việc
Ukraine đứng lên chống lại Nga. Trong ba năm qua, Đài Loan đã liên tục tăng
ngân sách quốc phòng, kéo dài thời gian nghĩa vụ quân sự bắt buộc từ ba tháng
lên một năm, đồng thời cải tổ chế độ huấn luyện, đầu tư vào sản xuất tên lửa và
máy bay không người lái trong nước, và đạt được những bước tiến quan trọng
trong phòng thủ dân sự. Năm 2016, hơn 80% người Đài Loan tin rằng việc kháng cự
trong một cuộc xung đột tiềm tàng với Trung Quốc sẽ là vô ích; đến năm 2022, tỷ
lệ dân số bày tỏ quan điểm này đã giảm gần một nửa, xuống còn 43%.
Về mặt kinh tế, áp lực của Bắc Kinh đối với Đài
Bắc đã làm suy giảm đòn bẩy của họ đối với hòn đảo này. Sau khi chứng kiến
những rủi ro chính trị khi kinh doanh tại đại lục, các công ty Đài Loan đang
giảm sự phụ thuộc của họ vào Trung Quốc. Đầu tư vào Trung Quốc từng chiếm 43%
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Đài Loan vào năm 2016, nhưng đã giảm xuống
chỉ còn 11% vào năm ngoái. Tỷ trọng của thương mại với Trung Quốc cũng tiếp tục
giảm trong tổng thương mại của hòn đảo. Mặt khác, Bắc Kinh vẫn phụ thuộc vào
các sản phẩm công nghệ của Đài Loan cho ngành sản xuất của mình, có nghĩa là
Trung Quốc hiện dễ bị tổn thương trước sự gián đoạn trong thương mại xuyên eo
biển hơn so với Đài Loan.
Trung Quốc khó có thể tìm ra con đường để
chuyển từ cưỡng bức vùng xám đến thống nhất mà không liên quan đến việc sử dụng
vũ lực quân sự. Họ cũng không thể quay lại với những điều tốt đẹp của thời đại
Mã Anh Cửu: chiến dịch vùng xám của họ đã để lộ mục tiêu chiến lược của họ đến
mức nhiều người Đài Loan thấy không còn có thể dung hòa với mong muốn của đại
lục – một kết quả mà không một sự điều chỉnh chiến thuật nào có thể đảo ngược.
MỤC TIÊU DI ĐỘNG
Dù các chiến thuật vùng xám của Trung Quốc
không gây ra mối đe dọa sống còn, nhưng Đài Loan không thể chỉ đơn giản là bỏ
qua chúng. Đài Bắc nên tiếp tục đa dạng hóa nền kinh tế của mình khỏi Trung
Quốc, xây dựng mạng lưới liên lạc bền bỉ, cải thiện an ninh mạng của các cơ sở
hạ tầng quan trọng và các bộ trực thuộc chính phủ, dự trữ các nguồn cung quan
trọng, và hợp tác với các nền dân chủ có cùng chí hướng về các thách thức toàn
cầu.
Đồng thời, cũng có nguy cơ Đài Loan sẽ phản ứng
với áp lực của Trung Quốc theo cách làm cạn kiệt nguồn tài nguyên hữu hạn mà
hòn đảo này rất cần để chuẩn bị cho một cuộc phong tỏa hoặc xâm lược. Thật vậy,
quyết định của Đài Loan nhằm phản ứng với các cuộc xâm nhập vào vùng nhận dạng
phòng không của mình bằng cách điều động máy bay phản lực chiến đấu và bám đuôi
tàu hải quân Trung Quốc trên biển đã gây sức ép nặng nề lên các nền tảng phòng
thủ của hòn đảo và có nguy cơ làm quân đội kiệt quệ, theo đó làm giảm khả năng
sẵn sàng của Đài Loan cho một cuộc xung đột trực tiếp. Tiếp tục đi theo con
đường này sẽ làm suy yếu khả năng chống chọi của Đài Loan trước một cuộc phong
tỏa hoặc xâm lược ngay ở thời điểm mà khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực ngày
càng cao.
Điều quan trọng đối với Đài Loan là ưu tiên
chuẩn bị cho cuộc chiến mà họ không thể thua. Điều này có nghĩa là phải điều
chỉnh các chiến lược phòng thủ sao cho phù hợp với thực tế mất cân bằng sức
mạnh: vì họ không tài nào sánh được với Trung Quốc về số lượng xe tăng, máy
bay, hoặc tàu chiến, Đài Loan nên từ bỏ một số nền tảng cũ này để chuyển sang
các hệ thống không người lái, mìn và tên lửa mà Đài Bắc có thể tự sản xuất hoặc
mua từ Mỹ với số lượng lớn hơn nhiều. Chắc chắn, chính phủ Đài Loan không thể
để các mối đe dọa vùng xám được nhận thức không được giải quyết, và phải tìm
cách chứng minh với công dân của mình rằng họ đang được bảo vệ. Nhưng do nguồn
lực hạn chế, việc chuẩn bị cho leo thang quân sự vẫn phải là trọng tâm chính.
Trong khi đó, Mỹ, quốc gia có lợi ích chiến
lược quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Eo biển Đài Loan, cần
tăng cái giá mà Trung Quốc phải trả nếu theo đuổi các chiến thuật này. Họ nên
phản ứng với các hành động cưỡng bức vùng xám bằng cách công bố viện trợ quân
sự bổ sung cho Đài Loan, triển khai nhiều năng lực quân sự cao cấp hơn đến khu
vực này, và tăng cường can dự quân sự với Nhật Bản, đặc biệt là ở các đảo phía
tây nam của nước này, trải dài về phía Đài Loan. Các cuộc tập trận quân sự của
Trung Quốc ở Eo biển Đài Loan nhằm mục đích báo hiệu với Mỹ rằng năng lực của
Trung Quốc quá tiên tiến để Washington có thể can thiệp thay mặt cho Đài Loan;
theo cách tương tự, Mỹ nên phản ứng bằng các cuộc tập trận của riêng mình để
chứng minh rằng họ có thể giữ các tuyến đường biển quan trọng gần Đài Loan được
thông suốt và tăng cường lực lượng ở khu vực này khi cần thiết. Washington cũng
nên cảnh báo Bắc Kinh rằng phản ứng của họ đối với sự cưỡng bức của Trung Quốc
đối với Đài Loan sẽ không chỉ giới hạn ở lĩnh vực quân sự – rằng việc gây thêm
áp lực lên Đài Loan sẽ dẫn đến những hạn chế sâu rộng hơn của Mỹ đối với việc
xuất khẩu công nghệ cao sang Trung Quốc.
Kiểu phối hợp này giữa Washington và Đài Bắc sẽ
làm phức tạp thêm các kế hoạch phong tỏa hoặc xâm lược của Trung Quốc, và có
thể thúc đẩy Bắc Kinh xem xét lại liệu cái giá để tiếp tục con đường hiện tại
có lớn hơn lợi ích thu được hay không. Ngay cả khi Trung Quốc không từ bỏ sách
lược vùng xám của mình, thì những bước đi như vậy chí ít cũng sẽ giúp Đài Loan
chuẩn bị tốt hơn cho một cuộc xung đột mà cưỡng bức vùng xám đã làm tăng khả
năng xảy ra.
David Sacks là Nghiên cứu viên về
Châu Á tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại
No comments:
Post a Comment