Ai cũng biết “Đức” là cái vô hình, thế mà có dày, có mỏng. Lại có hậu, có bạc. Thì ra “Đức” không chỉ đơn giản là sự tử tế, ăn hiền ở lành hay xử việc đúng đắn. Thậm chí không chỉ được tạo nên ở đời này, mà còn được tạo nên từ những đời trước. “Đức” là một thứ “của cải” thuộc về “mệnh” vậy.
Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn diệt được nước Ngô, trở về nói với người nhà: “Đức ta tuy hậu, song không thể vì thế mà tiêu xài hoang phí trong một vài đời được.” Nói rồi bèn không nhận quan tước, đem vợ con trốn vào ngũ hồ. Trước khi đi còn đến bảo Văn Chủng: “Tôi tự biết mình đức hậu, song cũng không dám lạm dụng điều đó mà làm quan, sợ thiệt mất đức của con cháu. Vì thế mới phải trốn đi. Một khi tôi đã đi rồi, thì triều đình còn ai tài hơn ông nữa. Đã thế đức của ông lại bạc. Trộm nghĩ điều đó nguy cho ông lắm. Hay là ông trốn đi còn hơn”. Văn Chủng không nghe, rốt cuộc ở lại bị Câu Tiễn giết.
Trương Lương sau khi giúp Hán Cao Tổ lấy được thiên hạ, bảo với Trần Bình: “Trộm nghĩ đức của tôi dày gấp mười lần ông, công của tôi cũng không kém ông. Vậy mà tôi vẫn không dám nhận quan tước của nhà Hán, sợ đức bị hao tổn, con cháu ngày sau phải làm lại từ đầu. Còn ông, tài thì vượt lên trên kẻ khác, song tiếc rằng đức lại mỏng. Thiết tưởng đó là điều vô cùng bất trắc, cho dù có trọn vẹn được đời mình, thì đến đời sau, con cháu cũng chẳng ra gì. Sao ông không bỏ quan mà đi?” Trần Bình không nghe, rốt cuộc đến ngay đời con đã trở về hạng khố rách áo ôm.
Trọng sinh con nhà khá giả, bố làm quan to. Thế mà sống rất giản dị, chan hòa với mọi người, thường giao du rộng rãi, đàn hát rất hay. Mạnh Tử yêu lắm, muốn kết làm bạn. Mạnh mẫu (mẹ Mạnh Tử) thấy vậy can: “Ta xem thằng bé ấy bề ngoài tuy giản dị song ánh mắt tham lam. Tiếng đàn tuy réo rắt mà những âm phụ vào thường hay bị nghẹn tiếng. Người như thế là đức bạc, không đáng kết bạn.” Trọng sinh về sau quả nhiên càng ngày càng trở nên một kẻ tham lam bất tín, kết giao toàn những hạng bèo bọt. Rốt cuộc phá tán hết cơ nghiệp của bố để lại.
Xem thế thì biết, “Đức” không phải là thứ có thể đem ra để khen, chê. Càng không phải là thứ đem ra để ca ngợi, hay mắng nhau (là đồ thất đức) như xưa nay vẫn nghĩ được. “Đức” tuy vô hình. Song đó là thứ không những có thể cân đong, đo đếm, mà quan trọng là chỉ có thể “tích”, chứ không nên “tiêu”…
Những chuyện trên chưa thấy chép trong Sử kí… Nay xin lạm chép ra đây để thay cho “Lời tựa” trong Luận ngữ Tân thư kì này. Đoạn trích kì này như sau:
Người nước Việt xưng là Mạt Tử, làm nghề mò trai mò hến trên sông. Một hôm đang chổng mông lặn ngụp, chợt bắt gặp một thằng bé ở đâu trôi đến. Thằng bé khoảng 10 tuổi, sắc mặt nhợt nhạt, người lạnh toát, bụng căng đầy nước, mười phần đã chết đến chín rưỡi. Mạt Tử vội vàng vớt lên bờ, nắm hai chân nó dốc ngược lên cho ộc hết nước trong bụng ra rồi xoa bóp, thổi hơi vào mồm nó. Khoảng nửa giờ thì thân thể thằng bé dần dần ấm lại, mũi nó đã bắt đầu thở nhẹ tuy người vẫn còn mềm nhũn.
Mạt Tử bèn bỏ giỏ hến lại đấy, vác nó lên vai mang về nhà. Gần đến nhà, bỗng có một ông lão ở đâu đi đến. Ông lão trỏ thằng bé bảo:
“Nom tướng thằng này thuộc hạng người bạc đức, sau này thể nào cũng phải nếm cứt người khác. Cứu nó làm gì cho phí công.”
Mạt Tử nghe nói, lưỡng lự một lát rồi chép miệng vác quay trở lại, định ném trả quách thằng bé xuống sông cho trôi đâu thì trôi. Đến chỗ lúc nãy, Mạt Tử đang chuẩn bị ném thì ông lão kia lại hớt hải chạy đến bảo:
“Khoan đã! Nó tuy phải nếm cứt người khác nhưng làm vua nước Việt thì chính là nó đấy.”
Mạt Tử nghe nói bèn thôi ý định. Lại vác thằng bé quay trở về… Gần đến nhà, ông lão kia lại vội vã chạy tới, xua tay bảo:
“Xin hãy cân nhắc cho kĩ đã! Nó tuy làm vua nước Việt, song bụng dạ hẹp hòi, đầu óc tăm tối. Vừa ưa nịnh, vừa bịp bợm, lại tham quyền cố vị, ác hơn thú dữ, suốt đời chỉ lo bức hại kẻ trung thần…”
Mạt Tử nghe nói tức thì nổi giận, lập tức vác quay trở lại, phen này quyết quẳng thằng bé xuống sông. Tới bờ sông, Mạt Tử đang lấy đà định quẳng thì ông lão kia lại hồng hộc chạy đến, vừa thở vừa nói:
“Khoan đã, khoan đã! Nó tuy ác hơn thú dữ, nhưng sau này diệt nước Ngô, làm nên cái oai danh cho nước Việt thì chính là nó đấy.”
Mạt Tử nghe nói lại bỏ ý định ném thằng bé xuống sông mà vác nó quay về nhà. Người vợ trông thấy hỏi: “Ở đâu ra cái thằng chết trôi này?”
Mạt Tử bèn kể lại đầu đuôi. Người vợ bảo: “Nó sau này dẫu có phải nếm cứt, thì hiện giờ cũng vẫn là một ông vua con. Tôi nghe nói nuôi vua khó lắm. Chỗ của nó phải ở bàn thờ chứ không thể bạ đâu đặt đấy được. Đã thế nó lại là cái giống bạc đức, sau này tất không ra gì. Nuôi một kẻ như thế trong nhà nguy như trứng để đầu gậy, không khéo lợi bất cập hại.”
Mạt Tử nghe vợ nói, lại tính ném quách thằng bé xuống sông. Song nghĩ lại thấy không nỡ, bèn chép miệng bảo vợ: “Thôi thì ta cũng vì cái oai danh của nước Việt sau này mà cứu nó một phen vậy. Nay hãy chịu khó để nó lên bàn thờ, nuôi mấy hôm cho nó hoàn hồn, cứng cáp như trước đã rồi đem bỏ ra giữa chợ, mặc ai nhặt thì nhặt, mình cũng đỡ phải tội.”
Số là Mạt Tử không biết. Thằng bé đó chính là tiểu công tử của nước Việt. Hôm ấy mải chơi đùa trên sông, chẳng may trượt chân té xuống nước. Nước sông đang chảy mạnh lập tức cuốn nó đi. Lúc bọn hầu cận phát hiện ra thì đã trôi đến mấy dặm. Mọi người hốt hoảng mò khắp một đoạn sông song không thấy. Mấy hôm sau, bọn hầu cận được phái đi tìm bắt gặp thằng bé đang lê la đói khát ở giữa chợ, vội vàng đem kiệu tới rước về cung. Thằng bé về sau quả nhiên được truyền ngôi, trở thành vua nước Việt. Bấy giờ đã 21 tuổi, tự phong vương, tỏ ra là một ông vua có chí lớn.
Vua mới lên ngôi, có cây sung cổ thụ bỗng dưng trổ hoa, thơm ngào ngạt ba ngày liền, thiên hạ tấm tắc khen là điềm lạ. Cả nước nổi cơn điên vì sướng. Có điều trong cái mùi thơm ấy, thỉnh thoảng vẫn thấy lẫn vào một thứ mùi gì đó ngửi rất khó chịu. Vài ngày sau rõ dần. Đích thị là mùi thối. Cuối cùng chỉ còn toàn mùi thối, kéo dài mấy tháng chưa hết. Quạ ở đâu ùn ùn bay về, đậu kín các cành. Thiên hạ càng cho là điềm lạ.
Mạt Tử nghe tin vua mới của nước Việt chính là thằng bé mình cứu ngày trước thì hãnh diện lắm, đi đâu cũng khoe. Mọi người bảo sao không nhân đó mà vào cung, xin đức vua ban cho ít ruộng hoặc một phẩm tước nào đó, khỏi phải làm nghề mò trai mò hến nữa… Mạt Tử lấy làm phải bèn xin vào cung ra mắt vua.
Chưa kịp nhắc lại ơn cũ thì Việt Vương đã ngửa mặt cười lớn mấy tiếng rồi vỗ bàn quát:
“Nhà ngươi tưởng cuộc đời này giống chuyện cổ tích lắm hay sao? Nhà ngươi dẫu cứu ta thoát khỏi chết đuối, song đã mấy lần định quẳng ta trở lại xuống sông. May mà mạng ta còn lớn khiến ngươi không làm nổi việc đó. Nay lại còn vác mặt đến đòi ta trả ơn? Ta không thèm tìm ngươi hỏi tội là phúc cho ngươi lắm rồi. Chính ngươi mới là kẻ phải biết ơn ta về điều đó đấy.”
Nói xong quát tả hữu đuổi Mạt Tử ra ngoài. Mạt Tử nhục quá lủi thủi ôm đầu chuồn khỏi cung. Rốt cuộc lại trở về bến sông làm nghề mò trai mò hến như cũ.
* * * * *
Con người phạm phải sai lầm không phải vì họ không hiểu biết, mà là vì họ tự cho rằng mình hiểu biết tất cả. (J.J.Rousseau)
* * * * *