Tại sao Bắc Kinh lại áp dụng chính sách ngoại giao gây chiến – và tại sao họ có thể làm như vậy một lần nữa.
Cách
đây 5 năm, vào năm 2019, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã ngừng xử sự theo kiểu
ngoại giao. Các đại sứ cấp cao và người phát ngôn của Bộ Ngoại giao nước này
bắt đầu đưa ra những tuyên bố gay gắt, mỉa mai, và tiêu cực trên Twitter (nay
là X), trong các cuộc họp báo, và sau cánh cửa đóng kín. Sự tương phản với
phong cách tế nhị và thận trọng của các nhà ngoại giao Trung Quốc thời trước
nổi bật đến mức các nhà quan sát trong và ngoài nước đã đặt cho các nhà ngoại
giao mới này biệt danh "chiến lang."
Mục
đích chính của ngoại giao chiến lang là bác bỏ những lời chỉ trích của nước
ngoài thông qua đối đầu công khai, thường sử dụng loại ngôn từ gợi cảm xúc.
Chẳng hạn, vào tháng 7/2019, một trong những nhà ngoại giao cấp cao của Trung
Quốc tại Pakistan đã có lời lẽ gay gắt nhắm vào một cựu cố vấn an ninh quốc gia
Mỹ trên Twitter. Sang tháng 11, Đại sứ Trung Quốc tại Thụy Điển đã gây chú ý
khi tuyên bố rằng "Chúng tôi chiêu đãi bạn bè bằng rượu ngon, nhưng đối
với kẻ thù, chúng tôi có súng ngắn." Trong cuộc đàm phán ngoại giao ở
Alaska vào tháng 3/2021, nhà ngoại giao cấp cao của Trung Quốc khi đó là Dương
Khiết Trì đã công khai cảnh báo Ngoại trưởng Antony Blinken không được
"bôi nhọ hệ thống xã hội của Trung Quốc," và một phát ngôn viên của
Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã chỉ trích phái đoàn Mỹ tạo ra bầu không khí thù
địch "đầy mùi thuốc súng."
Tuy
nhiên, giai đoạn đỉnh cao của ngoại giao chiến lang đã qua. Trong ba năm gần
đây, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã quay trở lại với cách tiếp cận truyền
thống hơn. Nhiều khả năng là theo mệnh lệnh của Chủ tịch Tập Cận Bình, họ đã
bắt đầu hạ giọng trong các tuyên bố công khai và tập trung vào việc cải thiện
quan hệ với Mỹ, Tây Âu, và các nước đang phát triển. Các tài khoản mạng xã hội
có liên kết với Bộ Ngoại giao Trung Quốc vẫn hoạt động, nhưng thông điệp của họ
đã trở nên ít gay gắt và đối đầu hơn. Các cuộc họp báo của Bộ cũng trở nên trầm
lắng hơn. Một số nhà ngoại giao từng có phát biểu gây chấn động quốc tế trong
những năm 2019 và 2020 hoặc đã nghỉ hưu, hoặc chuyển sang nhiệm vụ mới.
Nhiều
học giả và nhà hoạch định chính sách cho rằng sự trỗi dậy của ngoại giao chiến
lang là do tinh thần dân tộc chủ nghĩa của công chúng Trung Quốc và sự lãnh đạo
theo chủ nghĩa cá nhân của Tập Cận Bình. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn bất kỳ
yếu tố trong nước nào là sự thay đổi trong môi trường quốc tế. Trong khoảng một
năm trước đại dịch COVID-19, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã phản ứng dữ dội
trước sự tăng vọt của những lời chỉ trích từ nước ngoài – đáng chú ý nhất là từ
Mỹ – mà họ cho là mối đe dọa đối với sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ). Nhưng khi những lời chỉ trích của nước ngoài dịu đi, cách tiếp cận
ngoại giao của Trung Quốc cũng nhẹ nhàng trở lại.
Trong
tương lai, các nhà hoạch định chính sách Mỹ sẽ phải cẩn trọng xem xét tác động
của những bình luận công khai của họ. Nếu Bắc Kinh một lần nữa tin rằng mình
đang bị bao vây, các chiến lang có thể quay trở lại – làm tổn hại đến triển
vọng đối thoại mang tính xây dựng giữa Trung Quốc và Mỹ.
SỰ TRỖI
DẬY CỦA CÁC CHIẾN LANG
Các nhà
ngoại giao của Trung Quốc về cơ bản không khác biệt với các nhà ngoại giao của
các nước khác. Bộ Ngoại giao nước này cũng tiến hành các hoạt động tương tự như
các bộ ngoại giao khác, chuyển tiếp các thông điệp đến và đi từ các đối tác
nước ngoài và báo cáo các diễn biến ở nước ngoài. Các nhà ngoại giao Trung Quốc
không phải là những người duy nhất có công việc đòi hỏi họ phải giao tiếp với
các nước thù địch, đưa ra những lời đe dọa hung hăng, và giải thích hành động
của đất nước họ cho các nhà phê bình nước ngoài. Tuy nhiên, thông thường, các
nhà ngoại giao ở Trung Quốc và ở nước ngoài sẽ trình bày ngay cả những tin tức
khó chịu nhất bằng loại ngôn ngữ được điều chỉnh cẩn thận và chứa đựng chính
xác thông điệp mà các nhà lãnh đạo chính trị muốn truyền tải.
Nhìn
chung, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã chấp nhận đặc tính nghề nghiệp đó kể từ
khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân. Chu Ân Lai, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng
đầu tiên của đất nước, đã giám sát nhiều sáng kiến trong những năm 1950 và đầu
những năm 1960 nhằm xây dựng một đội ngũ đông đảo các nhà ngoại giao được đào
tạo bài bản. Sau bước lùi dưới thời Cách mạng Văn hóa, làm đảo lộn các hoạt
động ngoại giao của Trung Quốc, Bộ Ngoại giao nước này đã trở lại và trở nên
chuyên nghiệp hơn. Đến cuối những năm 1980, đại đa số các nhà ngoại giao cấp
cao của Trung Quốc đều có bằng đại học. Họ thường xuyên soạn thảo các sách
trắng, tổ chức các cuộc họp báo, và can dự với các đối tác ở nước ngoài. Các
nhà ngoại giao này cũng ngày càng thành thạo trong việc giao tiếp với khán giả
nước ngoài. Như các nhà khoa học chính trị Taylor Fravel và Evan Medeiros từng
chỉ ra trên Foreign Affairs năm
2003, các nhà ngoại giao của Trung Quốc đã trở nên "khôn khéo hơn trong
việc trình bày rõ ràng các mục tiêu của đất nước họ."
Đội ngũ
ngoại giao Trung Quốc dần trở nên quyết đoán hơn khi sức mạnh kinh tế và quân
sự của nước này gia tăng, đặc biệt là sau khi Tập trở thành Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản vào năm 2012. Nhưng bước ngoặt thực sự trong hoạt động ngoại giao của
Trung Quốc – cái mà sau này được gọi là chủ nghĩa chiến lang – đã xuất hiện vào
cuối những năm 2010. Theo phân tích của Yaoyao Dai và Luwei Rose Luqiu, tỷ lệ
câu trả lời thù địch với câu hỏi tại các cuộc họp báo của Bộ Ngoại giao Trung
Quốc đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2017-2020. Tương tự, nghiên cứu của
Weifang Xu cho thấy tần suất các nhà ngoại giao Trung Quốc mô tả nước khác bằng
những ngôn từ không hay trong các cuộc họp báo này đã tăng đáng kể vào năm
2019. Từ năm 2018 đến 2019, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã mở hơn 100 tài
khoản Twitter mới. Dù phần lớn nội dung đăng trên các tài khoản này không có gì
nổi bật, nhưng nhiều nhà ngoại giao Trung Quốc đã sử dụng những nền tảng này để
tranh cãi với các nhà phê bình nước ngoài.
Thuật
ngữ "chiến lang" đã trở nên quen thuộc từ trước khi Bộ Ngoại giao
Trung Quốc quyết định thay đổi định hướng ngoại giao. Chiến
lang 2, phần thứ hai của loạt phim hành động nổi tiếng, được phát
hành vào năm 2017. Loạt phim kể về một đơn vị đặc nhiệm hư cấu, được giao các
nhiệm vụ khác thường để bảo vệ lợi ích của Trung Quốc. Khẩu hiệu của cả hai
phần phim – "Dù cách xa ngàn dặm, bất cứ ai đối đầu với Trung Quốc cũng sẽ
phải trả giá" – dường như phù hợp với chiến dịch ngoại giao của Bắc Kinh
nhằm chống lại các nhà phê bình nước ngoài. Tính đến năm 2020, khán giả ở cả
trong và ngoài nước đều đã mô tả các nhà ngoại giao Trung Quốc ngoài đời thực
là "chiến lang."
NGOẠI
GIAO PHI NGOẠI GIAO
Dù
ngoại giao chiến lang nổi lên trong bối cảnh Trung Quốc đang có một sự chuyển
đổi rộng hơn, sang một đại chiến lược quyết đoán hơn dưới thời Tập, nhưng thuật
ngữ này chỉ đề cập đến một hiện tượng hẹp. Trên hết, nó mô tả một phong cách
giao tiếp. Ngược lại với lối nói chuyện vui vẻ và dễ chịu thường thấy trong thế
giới của các nhà ngoại giao, các chiến lang sử dụng giọng điệu tiêu cực, và
quan trọng hơn là gây kích động. Trong cả những dịp giao tiếp chuyên môn và
giao tiếp công cộng, họ đều cố tình chọn cách diễn đạt gợi nhiều cảm xúc và khá
thẳng thừng.
Một đặc
điểm nổi bật của chính sách ngoại giao chiến lang là nhấn mạnh vào sự chia rẽ
giữa "chúng ta" và "bọn họ." Các nhà ngoại giao Trung Quốc
mô tả các quan chức nước ngoài là đạo đức giả, vô đạo đức, hoặc phi lý trong so
sánh với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, những người thể hiện sự nhất quán, chính
trực, và hiểu thấu lẽ thường. Ví dụ, vào tháng 6/2021, Đại sứ Trung Quốc tại
Pháp nói rằng ông "rất vinh dự" được gọi là chiến lang và còn nhận
xét thêm rằng những nhà ngoại giao này chỉ đơn giản là bảo vệ Trung Quốc khỏi
"lũ chó điên" – tức các nhà phê bình nước ngoài.
Ý nghĩa
của những phát biểu đầy sức gợi của các nhà ngoại giao Trung Quốc thường nằm
trong mắt người xem. Khán giả nước ngoài nhìn chung cho rằng phong cách ngoại
giao mới này là bất lịch sự và thiếu tế nhị. Chẳng hạn, nhiều học giả và nhà
bình luận chính sách đối ngoại ở Mỹ đã mô tả các chiến lang của Trung Quốc là
"nóng nảy," "thái quá," "cứng rắn," "đối
đầu," và "hung hăng." Tuy nhiên, theo chính các nhà ngoại giao
Trung Quốc, những tuyên bố của họ chỉ là một phản ứng phòng thủ trước sự thù
địch xung quanh họ. Vào tháng 5/2020, Ngoại trưởng Trung Quốc cho biết các đại
diện của nước này chỉ đơn giản là đang đính chính "những lời vu khống ác
ý" và "những lời bôi nhọ vô cớ" nhắm vào Trung Quốc. Một nhà
ngoại giao Trung Quốc khác thì cho rằng "sự cần thiết phải chiến đấu như
chiến lang" xuất phát từ thực tế là "trên thế giới này còn nhiều loài
lang sói."
NGUỒN
GỐC NƯỚC NGOÀI
Bất kể
là ở thời kỳ nào, dù là giai đoạn sôi nổi hay im lặng của chủ nghĩa dân tộc, dù
là dưới sự cai trị tập thể hay cá nhân, một xu hướng nổi bật vẫn luôn tồn tại
trong chính trị Trung Quốc: ĐCSTQ dị ứng với những lời chỉ trích đặt ra câu hỏi
về quyền cai trị của chế độ. Lời chỉ trích này hiếm khi dẫn đến các cuộc thảo
luận trong hội trường quyền lực ở Bắc Kinh. Thay vào đó, chúng khiến các nhà
lãnh đạo Trung Quốc ngừng đối thoại và quay sang công kích những người dám chỉ
trích. Do đó, khi những lời chỉ trích quốc tế nhắm vào Trung Quốc gia tăng vào
cuối những năm 2010, chính phủ Trung Quốc đã đáp trả bằng cách huy động các nhà
ngoại giao của mình.
Trong
giai đoạn đó, Trung Quốc đã phải đối mặt với làn sóng chỉ trích của nước ngoài
do các trại giam giữ ở Tân Cương và việc đàn áp các cuộc biểu tình ở Hong Kong.
Khi quan hệ Mỹ-Trung xấu đi dưới thời Tổng thống Donald Trump, các quan chức Mỹ
lại càng chỉ trích Bắc Kinh. Và những lời chỉ trích Trung Quốc đã xuất hiện
ngay từ đầu nhiệm kỳ của Trump; Chiến lược An ninh Quốc gia của chính quyền
này, được công bố vào tháng 12/2017, đã gọi Trung Quốc là một cường quốc theo
chủ nghĩa xét lại. Nhưng sự chỉ trích đối với hệ thống chính trị Trung Quốc đã
tăng lên sau tháng 10/2018, khi Phó Tổng thống Mike Pence có bài phát biểu tại
Viện Hudson, trong đó ông lên án Trung Quốc "can thiệp vào nền dân chủ của
Mỹ."
Làn
sóng chỉ trích quốc tế đối với Trung Quốc lên đến đỉnh điểm cùng với đại dịch
COVID-19. Dù một số lời chỉ trích có thể bị bác bỏ như một phản ứng bài ngoại
vì cho rằng nguồn gốc của virus là từ Trung Quốc, nhưng phản ứng của các nhà
lãnh đạo và truyền thông nước ngoài cũng đặt ra nghi vấn về tính chính danh của
các thể chế nội bộ Trung Quốc. Họ chất vấn, tại sao chính phủ Trung Quốc lại
chậm trễ trong việc ngăn chặn virus? Phải chăng Tập đã không thể thu thập thông
tin chất lượng từ bộ máy hành chính? Phải chăng các nhà khoa học Trung Quốc đã
bị bịt miệng? Phải chăng chính quyền địa phương đã bỏ qua các quy tắc và quy
định của chính quyền trung ương? Xuyên suốt đại dịch, các nhà bình luận phương
Tây cũng tranh luận về việc liệu hệ thống tập quyền của Trung Quốc sẽ hoạt động
tốt hơn hay tệ hơn so với các mô hình dân chủ, làm dấy lên nghi ngờ về khả năng
của Trung Quốc trong việc sản xuất vaccine hiệu quả và ngăn chặn sự lây lan của
dịch bệnh.
Phần
lớn những lời chỉ trích các quyết định của Bắc Kinh có thể là chính đáng. Tuy
nhiên, vấn đề không phải là giá trị của lời chỉ trích mà là thời điểm mà chúng
xảy ra: giai đoạn chỉ trích quốc tế gay gắt nhất lại trùng hợp với thời kỳ hoạt
động mạnh nhất của các chiến lang Trung Quốc.
Các nhà
ngoại giao Trung Quốc đã chỉ rõ mối liên hệ giữa những lời sỉ nhục của nước
ngoài và các chiến thuật ngoại giao của chính họ. Cuối năm 2019, Triệu Lập Kiên
– một chiến lang kiểu mẫu lúc đó đang phục vụ trong Bộ Ngoại giao ở Bắc Kinh –
nói với BuzzFeed rằng
đã đến lúc "các nhà ngoại giao Trung Quốc phải nói ra sự thật" để đáp
lại những quan chức Mỹ đang "vu khống" và "nói xấu Trung
Quốc." Sang tháng 12/2020, Thứ trưởng Ngoại giao Lạc Ngọc Thành cũng đưa
ra nhận xét tương tự, tuyên bố rằng "Giờ đây, khi [các nhà chỉ trích nước
ngoài] đến trước sân nhà của chúng tôi, can thiệp vào công việc nội bộ, liên
tục quấy rối, xúc phạm, và làm mất uy tín của chúng tôi, thì chúng tôi không
còn lựa chọn nào khác ngoài việc kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia và phẩm giá
dân tộc."
Một số
nhà phân tích cho rằng động lực trong nước là nguyên nhân chính dẫn đến chủ
nghĩa chiến lang. Họ thường quy kết sự trỗi dậy của các chiến lang là do yêu
cầu của công chúng Trung Quốc hoặc mong muốn của các quan chức cấp thấp trong
việc nhằm xoa dịu nhà lãnh đạo tối cao của đất nước. Theo cách lý giải thứ
nhất, các nhà ngoại giao Trung Quốc, nhận thức được tinh thần dân tộc chủ nghĩa
cao độ ở trong nước, đã quyết định đáp ứng những lời kêu gọi từ dưới lên về một
lập trường quyết đoán hơn đối với nước ngoài. Còn theo cách lý giải thứ hai,
sau chiến dịch chống tham nhũng và thâu tóm quyền lực của Tập, các nhà ngoại
giao lo sợ rằng ông và các cấp cao hơn trong Bộ Ngoại giao sẽ đặt câu hỏi về
lòng trung thực chính trị của họ, và mối lo này buộc họ phải tự điều chỉnh
thông điệp của mình theo hướng mà họ tin rằng Tập, người nổi tiếng với tham
vọng chính sách đối ngoại, sẽ chấp thuận.
Cả hai
cách lý giải này đều để lại nhiều điều chưa thể giải thích. Có rất ít bằng
chứng cho thấy dư luận Trung Quốc đã chuyển hướng đáng kể vào cuối những năm
2010, đủ để thúc đẩy chiến thuật chiến lang tăng đột biến. Chủ nghĩa dân tộc đã
nổi lên ở Trung Quốc kể từ những năm 1990, và đặc biệt kể từ khi Bắc Kinh đăng
cai Thế vận hội Olympic năm 2008 – rất lâu trước khi có sự thay đổi mạnh mẽ
trong cách tiếp cận ngoại giao của Trung Quốc. Việc trao cho Tập một vai trò mờ
nhạt trong việc tạo ra bầu không khí sợ hãi cũng che đậy sự thật rằng ông đã
can thiệp trực tiếp vào hoạt động ngoại giao. Năm 2019, khi làn sóng ngoại giao
chiến lang gần đây bắt đầu hình thành, Tập được cho là đã ra lệnh cho các nhà
ngoại giao Trung Quốc thể hiện "tinh thần chiến đấu" khi họ thực hiện
nhiệm vụ của mình. Các nguồn tin ở Trung Quốc tin rằng hướng đi của Tập nhiều
khả năng là kết quả của sự thất vọng của ông đối với tình trạng quan hệ
Mỹ-Trung. Ông dường như tin rằng Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài
việc đương đầu với làn sóng chỉ trích quốc tế mà nước này phải đối mặt – và ông
đã chỉ thị cho các nhà ngoại giao của mình làm điều đó.
TRỞ LẠI
BÌNH THƯỜNG
Chính
sách ngoại giao chiến lang của Trung Quốc bắt đầu suy yếu dần từ năm 2021.
Tháng 5 năm đó, Tập Cận Bình đã triệu tập một phiên họp tập thể của Bộ Chính
trị, một diễn đàn để các lãnh đạo cấp cao của đảng lắng nghe các chỉ thị và
hướng dẫn, thảo luận về các vấn đề liên lạc quốc tế của Trung Quốc. Diễn biến
phiên họp không được công bố rộng rãi, nhưng có lẽ Tập đã sử dụng sự kiện này
để ra lệnh cho bộ máy hành chính dừng triển khai chính sách ngoại giao thù địch
đối với Mỹ và Tây Âu. Các học giả Samuel Brazys, Alexander Dukalskis, và Stefan
Müller đã phát hiện những thay đổi trong các thông điệp hướng tới các nước thuộc
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD từ các tài khoản Twitter liên kết
với Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các bộ phận khác của chính phủ Trung Quốc trong
những tháng sau phiên họp.
Không
phải ngẫu nhiên mà sự chuyển hướng của Trung Quốc sang chính sách ngoại giao ít
hung hăng hơn lại xảy ra đúng vào lúc môi trường quốc tế trở nên ít thù địch
hơn với Bắc Kinh. Những lời chỉ trích của nước ngoài, đặc biệt là từ chính phủ
Mỹ, đã được giảm bớt dưới thời chính quyền Biden. Đúng là các quan chức Mỹ vẫn
lên án các hành vi vi phạm nhân quyền, ca ngợi tính ưu việt của các thể chế dân
chủ, và kêu gọi các nhà lãnh đạo Trung Quốc đưa ra những lựa chọn mà họ không
đồng tình. Tuy nhiên, Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao cũng sẵn sàng trấn an rằng mục
tiêu của Washington không phải là thay đổi chế độ ở Bắc Kinh. Vào tháng 5/2022,
Blinken khẳng định rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ "phải ứng phó với nhau trong
tương lai gần." Đến tháng 6/2024, Thứ trưởng Ngoại giao Kurt Campbell đã
tuyên bố rõ ràng rằng việc tìm cách thay đổi chế độ ở Trung Quốc là "liều
lĩnh và có thể không hiệu quả."
Trong
khi đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể đã nhìn thấy cơ hội ổn định quan hệ
với nước ngoài, đặc biệt là với Mỹ và Tây Âu. Những người ra quyết định của
Trung Quốc không muốn rơi vào tình trạng bị cô lập kéo dài, bởi điều đó sẽ làm
suy yếu triển vọng tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, cũng như cản trở hành
trình tìm kiếm vị thế quốc tế của nước này. Nền kinh tế trì trệ của Trung Quốc
chắc chắn đã khiến cách tiếp cận ngoại giao mềm mỏng trở nên hấp dẫn hơn đối
với Bắc Kinh.
Ngoài
động lực hàn gắn quan hệ, Tập cũng có thể đã chọn cách kiềm chế chính sách
ngoại giao chiến lang vì nó đang làm suy yếu, thay vì củng cố, hình ảnh của
Trung Quốc trước công chúng. Những bằng chứng tốt nhất hiện có đã chứng minh
phong cách hung hăng đó không xoay chuyển được dư luận nước ngoài theo hướng có
lợi cho Trung Quốc. Thay vào đó, các thí nghiệm khảo sát của Weifang Xu đã cho
thấy rằng thông điệp phỉ báng có xu hướng làm tăng sự ủng hộ của công chúng Mỹ
đối với các chính sách cứng rắn đối với Trung Quốc. Tương tự, các thí nghiệm
của Daniel Mattingly và James Sundquist phát hiện ra rằng thông điệp tiêu cực
về Mỹ không cải thiện một cách nhất quán thái độ đối với Trung Quốc ở các nước
thứ ba, chẳng hạn như Ấn Độ – và thậm chí có thể dẫn đến tác động tiêu cực khi
được đưa ra trong các cuộc đối đầu quân sự với Bắc Kinh. Các cuộc phỏng vấn do
Dylan Loh thực hiện tiết lộ rằng một vài nhà ngoại giao và học giả Trung Quốc
thừa nhận rằng chủ nghĩa chiến lang không hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn
chưa rõ liệu những quan sát của họ có đến được tai những người ra quyết định
cấp cao hay không, và thậm chí nếu có thì liệu điều này có dẫn đến quyết định
hạ cấp các chiến lang hay không.
ĐÁNH
ĐỔI
Xét cho
cùng, những thăng trầm của chính sách ngoại giao chiến lang chính là một biểu
hiện cho nhận thức của các nhà lãnh đạo Trung Quốc về môi trường quốc tế và mối
đe dọa mà nó gây ra đối với an ninh của chế độ. Hiểu biết trọng tâm này dẫn đến
hai kết luận quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách Mỹ. Thứ nhất, việc
Trung Quốc giảm bớt giọng điệu gay gắt có thể không phải là vĩnh viễn. Đội ngũ
ngoại giao của nước này đã chứng tỏ khả năng thích ứng nhanh chóng với các điều
kiện đang thay đổi, và các nhà lãnh đạo đảng có thể một lần nữa sử dụng các
chiến lang nếu điều đó phù hợp với lợi ích của họ.
Ngoài
ra, Washington phải cân nhắc kỹ những tuyên bố rằng cách thức vận hành của
chính phủ Trung Quốc có thể làm suy yếu cơ hội duy trì liên lạc giữa hai bên.
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ thường cảm thấy cần phải chỉ trích hành động
của các chính phủ nước ngoài khi những hành động đó trái ngược với các giá trị
của Mỹ, và đôi khi là điều này là chính đáng. Khi đề cập đến các vấn đề như đàn
áp các dân tộc thiểu số, người Mỹ có thể và nên tiếp tục lên tiếng về những gì
mình tin tưởng.
Những
lời chỉ trích đó có thể chính đáng, nhưng không có nghĩa là chúng không có một
cái giá đi kèm. Nước Mỹ được hưởng lợi từ sự can dự ngoại giao với Trung Quốc,
cho phép cả hai bên làm rõ quan điểm của mình, phân định các lằn ranh đỏ, và
xoa dịu căng thẳng. Tuy nhiên, như các cuộc đàm phán năm 2021 ở Alaska đã minh
họa, những cơ hội như vậy sẽ bị lãng phí nếu các nhà ngoại giao của Bắc Kinh
lại sử dụng chúng để bảo vệ quyền cai trị của chế độ. Hơn nữa, những nỗ lực công
khai của Trung Quốc nhằm bảo vệ danh dự quốc gia bằng cách chỉ trích các nhà
phê bình nước ngoài đã phủ sóng khắp các kênh truyền thông, theo đó càng gây
khó khăn cho việc xác định quan điểm thực tế của Trung Quốc. Ngay cả khi Mỹ đã
chấp nhận một quan hệ dựa trên cạnh tranh với Trung Quốc, việc khuyến khích các
nhà ngoại giao Trung Quốc sử dụng khả năng ngoại giao hữu hạn của họ để kích
động đối đầu là không phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ.
Do đó,
các nhà hoạch định chính sách Mỹ phải lưu ý đến cái giá phải trả khi họ đưa ra
những tuyên bố mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc xem là một nỗ lực nhằm làm suy
yếu tính chính danh trong nước của họ. Một cái bẫy mà Washington thường rơi vào
là xem những lời chỉ trích của họ dành cho một chính phủ nước ngoài chỉ đơn
giản là sự khẳng định các giá trị của Mỹ – và bỏ qua khả năng các nhà lãnh đạo
của chính phủ đó sẽ xem lời chỉ trích là mối đe dọa đối với sự sống còn chính
trị của họ. Đôi khi, việc Mỹ chỉ trích Trung Quốc là phù hợp, hoặc thậm chí là
nên làm. Nhưng nếu hình thức và tần suất chỉ trích đạt đến mức đe dọa đến cảm
giác an toàn của ĐCSTQ, Washington có thể sẽ đối mặt với một phản ứng kiểu
chiến lang, và lúc đó, các nhà hoạch định chính sách Mỹ sẽ phải quyết định xem
liệu cái giá của các kênh ngoại giao này có xứng đáng hay không.
No comments:
Post a Comment