NGA TRỞ THÀNH NƯỚC CHƯ HẦU
Giới tinh hoa
Nga ủng hộ Putin thường khoe khoang rằng họ đã phát triển được một lựa chọn tốt
hơn phương Tây. Quả thật, quan hệ Trung-Nga đã gây ngạc nhiên cho nhiều nhà
phân tích biết về lịch sử chông gai giữa Bắc Kinh và Moscow, bao gồm cả sự chia
rẽ Trung-Xô nổi tiếng hồi những năm 1960, lên đến đỉnh điểm là một cuộc chiến
biên giới. Dù xung đột đã chính thức được giải quyết bằng việc phân định biên
giới, Nga vẫn là quốc gia duy nhất đang kiểm soát phần lãnh thổ chiếm được từ
Nhà Thanh nhờ những gì Trung Quốc gọi là những hiệp ước bất bình đẳng. Tuy
nhiên, điều đó đã không ngăn cản Trung Quốc và Nga tăng cường quan hệ song
phương, bao gồm cả việc tiến hành các cuộc tập trận quân sự chung quy mô lớn,
vốn đã gia tăng về tần suất và phạm vi địa lý suốt 20 năm qua. Hai nước cũng
chia sẻ về những bất bình của Nga liên quan đến việc NATO mở rộng và phương Tây
can thiệp vào Ukraine, nơi sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Nga vẫn đóng vai
trò quan trọng.
Việc Trung Quốc
và Nga xích lại gần nhau đã có từ trước khi Putin và Tập lên nắm quyền. Trong
những năm 1980, chính Đặng Tiểu Bình là người đã tách Trung Quốc khỏi Moscow,
một hành động có tính bước ngoặt hơn cả điều mà Mao Trạch Đông đã thực hiện
trong thập niên 1960 và 1970. Đặng đã giúp các nhà sản xuất Trung Quốc giành
được quyền tiếp cận thị trường nội địa Mỹ, vốn là thủ thuật đã tạo ra sự biến
đổi ở Nhật Bản, sau đó là Hàn Quốc và Đài Loan. Việc Đặng "ly hôn"
với Liên Xô cộng sản để bước vào cuộc "hôn nhân kinh tế" trên thực tế
với các nhà tư bản Mỹ và châu Âu đã mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng đáng kinh
ngạc, khai sinh ra tầng lớp trung lưu Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc và Nga
vẫn gắn bó với nhau. Người kế nhiệm được lựa chọn cẩn thận của Đặng, Giang
Trạch Dân, vốn từng được đào tạo tại một nhà máy của Liên Xô, đã tìm cách đưa
Nga trở lại làm "tình nhân" mà không phá vỡ quan hệ hôn nhân
Mỹ-Trung. Giang đã ra lệnh giúp hồi sinh tổ hợp công nghiệp quốc phòng bị bỏ
hoang của Nga và hiện đại hóa ngành sản xuất vũ khí và quân sự của chính Trung
Quốc. Năm 1996, Giang và Yeltsin tuyên bố "quan hệ đối tác chiến
lược." Dù thương mại song phương còn ở mức khiêm tốn, sự bùng nổ kinh tế
trong nước của Trung Quốc đã gián tiếp hồi sinh nền sản xuất dân sự thời
Xô-viết bằng cách nâng mức cầu toàn cầu, theo đó nâng giá các đầu vào công
nghiệp mà Liên Xô đã sản xuất với chất lượng thấp nhưng số lượng cao, từ thép
đến phân bón. Tương tự như cách Mỹ giúp hình thành tầng lớp trung lưu ở Trung
Quốc, Trung Quốc cũng góp phần tạo nên tầng lớp trung lưu ở Nga và sự bùng nổ
kinh tế của Putin.
Tuy nhiên, quan
hệ xã hội và văn hóa giữa hai dân tộc vẫn rất mong manh. Về mặt văn hoá, người
Nga là người châu Âu, và có rất ít người Nga biết nói tiếng Trung (so với tiếng
Anh). Dù một số người Trung Quốc lớn tuổi có thể nói tiếng Nga, vốn là di sản
từ thời Moscow còn là trung tâm của thế giới cộng sản, nhưng con số đó không
lớn, và giai đoạn mà một lượng lớn sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường
đại học Nga đã trở thành ký ức xa vời. Người Nga lo ngại về sức mạnh của Trung
Quốc, trong khi nhiều người Trung Quốc đã chế nhạo Nga trên mạng. Và những
người ủng hộ trung thành của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn không chịu tha thứ
cho việc Moscow huỷ hoại chủ nghĩa cộng sản trên khắp lục địa Á-Âu và Đông Âu.
Tuy nhiên, quan
hệ cá nhân sâu sắc giữa Putin và Tập đã bù đắp cho những nền tảng mong manh
này. Hai người đàn ông đã xây dựng tình anh em thân thiết khi gặp nhau tới 42
lần (một con số đáng kinh ngạc) trong thời gian cầm quyền, công khai ca ngợi
nhau là "bạn thân nhất của tôi" (Tập nói về Putin) và "bạn
thân" (Putin nói về Tập). Tình đoàn kết độc tài giữa hai tâm hồn đồng điệu
này được củng cố bởi chủ nghĩa chống phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa chống
Mỹ, đã có từ lâu. Khi Trung Quốc chuyển từ đối tác cấp dưới thành đối tác cấp
cao, hai nước láng giềng đã nâng cấp quan hệ, công bố "quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện" vào năm 2013. Về mặt chính thức, thương mại giữa Nga
và Trung Quốc đã vượt 230 tỷ USD vào năm 2023, dù con số này chỉ dao động quanh
mức 16 tỷ USD ba thập niên trước đó và chỉ ở mức 78 tỷ USD vào giữa những năm
2010 (sau khi điều chỉnh theo lạm phát). Hơn nữa, số liệu của năm 2023 không
bao gồm hàng chục tỷ USD thương mại song phương được ngụy trang thông qua các
bên thứ ba, như Kyrgyzstan, Thổ Nhĩ Kỳ, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống
nhất.
Đến nay, Trung
Quốc vẫn mua động cơ máy bay quân sự từ Nga. Nhưng trong các lĩnh vực khác, sự
phụ thuộc là theo chiều ngược lại. Các biện pháp trừng phạt của phương Tây đã
đẩy nhanh việc ngành công nghiệp xe hơi nội địa của Nga rơi vào tay Trung Quốc.
Moscow hiện đang có một lượng dự trữ nhân dân tệ đáng kể, vốn chỉ có thể được
sử dụng cho hàng hóa Trung Quốc. Nhưng bất chấp vô số cuộc họp suốt hàng chục
năm qua, vẫn chưa có một thỏa thuận cuối cùng về đường ống dẫn khí đốt tự nhiên
mới từ Siberia đến Trung Quốc qua Mông Cổ. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã cố gắng
hết sức để tránh phải phụ thuộc vào Nga về năng lượng hoặc bất cứ thứ gì khác.
Ngược lại, Trung Quốc hiện là nước dẫn đầu thế giới về năng lượng mặt trời và
gió, đồng thời đang nỗ lực thay thế Nga để trở thành nước dẫn đầu thế giới về
năng lượng hạt nhân.
Giới tinh hoa
Nga, ngay cả khi họ kịch liệt lên án "quyết tâm" của Mỹ nhằm chinh
phục hoặc chia cắt đất nước của họ, nhìn chung vẫn không lên tiếng phản đối
việc Putin phục tùng Trung Quốc. Gần đây, các nhà bình luận Nga bắt đầu nhắc
lại câu chuyện của Alexander Nevsky, Đại Vương công Novgorod hồi thế kỷ 13, một
trong những vùng đất sau này sẽ hợp nhất thành Muscovy, tiền thân của Đế quốc
Nga. Khi đối mặt với kẻ thù trên hai mặt trận, Nevsky đã chọn chiến đấu với
quân thập tự chinh ở phía tây và đánh bại quân Teuton trong Trận Hồ Chudskoe,
nhưng chấp nhận phục tùng quân Mông Cổ xâm lược ở phía đông, vượt Trung Á đến
thủ đô của Hãn quốc Kim Trướng thuộc Mông Cổ để được công nhận là đại vương công
của Nga. Trong câu chuyện này, những người theo Cơ đốc giáo phương Tây đã quyết
tâm làm suy yếu bản sắc Cơ đốc giáo phương Đông của Nga, còn người Mông Cổ chỉ
đơn giản muốn Nga tỏ lòng kính trọng. Và hàm ý là sự phục tùng Trung Quốc ngày
nay không đòi hỏi Nga phải từ bỏ bản sắc của mình, nhưng nếu Nga thất bại trước
phương Tây thì họ chắc chắn sẽ mất đi bản sắc.
Thật vớ vẩn.
Người Nga đã phải mất hàng thế kỷ mới thoát khỏi cái mà sách giáo khoa ở trường
của họ gọi chung là "ách" Mông Cổ, nhưng nước Nga vẫn tồn tại qua
nhiều thế kỷ trong quan hệ với phương Tây mà chưa bao giờ trở thành phương Tây.
Tuy nhiên, không phải phương Tây không nhất thiết có nghĩa là chống phương Tây
– tất nhiên là trừ phi người ta đang cố gắng bảo vệ một chế độ phi tự do trong
một trật tự thế giới tự do. Nước Nga đã tồn tại trong biên giới hậu Xô-viết
suốt 20 năm trước khi Putin quyết định rằng tình hình là không thể chấp nhận
được nữa. Giờ đây, sau khi đã đốt cháy cây cầu nối với phương Tây và đổ lỗi cho
phương Tây về hành động đó, ông chẳng còn cách nào khác ngoài việc dựa vào
thiện chí của Trung Quốc.
Sự mất cân bằng
lớn và ngày càng gia tăng trong quan hệ Nga-Trung đã khiến nhiều nhà phân tích
gọi Nga là chư hầu của Trung Quốc. Nhưng chỉ có Trung Quốc mới có thể quyết
định việc một quốc gia có khác trở thành chư hầu của họ hay không, và theo đó,
Bắc Kinh sẽ phải quyết định chính sách, thậm chí cả nhân sự ở Nga, đồng thời
gánh vác phần lớn trách nhiệm. Hiện tại, Trung Quốc không có nghĩa vụ hiệp ước
ràng buộc nào với Nga. Putin chỉ có lời nói của Tập, một người đã 70 tuổi – và
cũng có thể chết. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo vẫn tiếp tục tố cáo nỗ lực bá
quyền của Mỹ và hợp tác chặt chẽ với nhau. Một cam kết chung nhằm mang lại trật
tự thế giới an toàn hơn cho chế độ chuyên chế của họ và giúp họ thống trị khu
vực của mình đang thúc đẩy một chế độ chư hầu trên thực tế, dù cả hai đều không
mong muốn điều đó.
NGA TRỞ THÀNH
TRIỀU TIÊN
Khi sâu sắc
thêm sự phụ thuộc của Nga vào Trung Quốc, Putin hoặc người kế nhiệm ông có thể
lấy cảm hứng (một cách nghịch lý) từ trải nghiệm của Triều Tiên. Và điều đó có
thể khiến Tập Cận Bình hoặc người kế nhiệm ông phải suy nghĩ lại. Khi Bắc Kinh
can thiệp để giải cứu Bình Nhưỡng trong Chiến tranh Triều Tiên, Mao đã nhắc đến
một câu tục ngữ, rằng nếu môi hở (Triều Tiên) thì răng lạnh (Trung Quốc). Phép
ẩn dụ này vừa hàm ý về một vùng đệm, vừa hàm ý về một điều kiện phụ thuộc lẫn
nhau. Trong những năm qua, một số nhà bình luận Trung Quốc đã nghi ngờ giá trị
của việc hỗ trợ Triều Tiên, đặc biệt là sau vụ thử hạt nhân đầy thách thức của
nước này vào năm 2006. Đối mặt với các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, mà
Trung Quốc cũng tham gia, giới lãnh đạo Triều Tiên đã tích cực thúc đẩy các
chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa có thể nhắm đến không chỉ Seoul và
Tokyo, mà còn cả Bắc Kinh và Thượng Hải. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc
cuối cùng đã tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với Bình Nhưỡng vào năm 2018.
Do Triều Tiên phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc về lương thực, nhiên liệu, và
nhiều thứ khác, Bắc Kinh dường như đang kẹp Kim Jong Un trong một chiếc kìm
sắt.
Tuy nhiên,
những người trung thành với Bình Nhưỡng đôi khi vẫn cảnh báo rằng răng có thể
cắn vào môi. Như giới cầm quyền ở Bắc Kinh đã nhiều lần nhận ra, Kim không phải
lúc nào cũng vâng lời những người bảo trợ của mình. Năm 2017, ông ra lệnh sát
hại người anh cùng cha khác mẹ là Kim Jong Nam, vốn đang được Trung Quốc bảo vệ
ở nước ngoài. Kim dám bất chấp tất cả vì ông biết rằng dù mình có chọc giận Bắc
Kinh đến mức nào thì Trung Quốc cũng không muốn chế độ ở Bình Nhưỡng sụp đổ.
Nếu nhà nước Triều Tiên tan rã, bán đảo sẽ được thống nhất dưới chế độ Hàn
Quốc, một đồng minh hiệp ước của Mỹ. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc
cuối cùng đã thua trong Chiến tranh Triều Tiên, vốn đang trong tình trạng đình
chiến trong hơn 70 năm qua. Việc mất đi vùng đệm Triều Tiên có thể làm phức tạp
thêm các lựa chọn và lịch trình nội bộ của Bắc Kinh liên quan đến việc thống
nhất với Đài Loan, vì Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một môi trường thù địch
hơn ở ngay gần kề. Trong lịch sử, bất ổn trên Bán đảo Triều Tiên thường có xu
hướng lan sang Trung Quốc, và làn sóng người tị nạn có thể gây bất ổn cho vùng
đông bắc Trung Quốc và thậm chí xa hơn. Vì vậy, Bắc Kinh dường như đang mắc kẹt
trong một dạng phụ thuộc ngược với Bình Nhưỡng. Tập sẽ không muốn rơi vào tình
thế tương tự với Moscow.
Nga và Triều
Tiên khác nhau hoàn toàn. Diện tích lãnh thổ của Nga gấp hơn 142 lần Triều
Tiên. Và dù mỗi người kế nhiệm trong gia đình Kim đều được đảng cộng sản phê
chuẩn làm lãnh đạo, Triều Tiên thực chất đi theo chế độ cha truyền con nối, thứ
mà Nga không có. Triều Tiên cũng là một đồng minh hiệp ước chính thức của Trung
Quốc, thực ra là đồng minh duy nhất của Bắc Kinh trên thế giới, cả hai đã ký
hiệp ước phòng thủ chung vào năm 1961. (Một số nhà bình luận Trung Quốc cho
rằng Trung Quốc không còn có nghĩa vụ phải bảo vệ Triều Tiên trong trường hợp
xảy ra một cuộc tấn công bởi vì Bình Nhưỡng đã phát triển vũ khí hạt nhân,
nhưng hiệp ước phòng thủ vẫn chưa bị bãi bỏ.) Triều Tiên cũng phải đối mặt với
một nhà nước đối thủ là Hàn Quốc, do đó họ giống với Đông Đức (không còn tồn
tại) hơn là với Nga.
Bất chấp những
khác biệt này và cả những khác biệt khác, Nga vẫn có thể trở thành một Triều
Tiên khổng lồ: đàn áp trong nước, bị cô lập, và vi phạm luật lệ quốc tế, được
trang bị vũ khí hạt nhân, phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc nhưng vẫn có thể
chống lại Bắc Kinh. Hiện chưa rõ Putin đã tiết lộ bao nhiêu về kế hoạch Ukraine
của mình với Bắc Kinh vào tháng 2/2022, khi ông đưa ra tuyên bố chung về "quan
hệ đối tác không giới hạn" giữa Trung Quốc và Nga – theo đó khiến Tập
trông như đã tán thành hành động xâm lược của Nga. Không lâu sau khi Trung Quốc
công bố kế hoạch hòa bình cho Ukraine, Tập đã tới Moscow để dự hội nghị thượng
đỉnh, xuất hiện cùng Putin trên chiếc cầu thang được trang trí công phu ở Điện
Kremlin mà vào năm 1939, Joachim von Ribbentrop, Ngoại trưởng Đức dưới thời Đức
Quốc Xã, từng xuất hiện cùng với Stalin và Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov sau
khi củng cố hiệp ước Hitler-Stalin. Nhưng một phát ngôn viên của Điện Kremlin
đã bác bỏ khả năng hòa bình, dù chính phủ của Tổng thống Ukraine Volodymyr
Zelensky đã chấp nhận rằng tài liệu mơ hồ của Trung Quốc là đáng để thảo luận.
(Phái đoàn hòa bình cấp thấp của Trung Quốc tới Kyiv đã thất bại.) Sau đó, khi
các nhà ngoại giao Trung Quốc khoe khoang với toàn thế giới và đặc biệt là với
châu Âu rằng Tập đã buộc Nga cam kết không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine,
chế độ của Putin lại tuyên bố họ đang triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật ở
Belarus (Trung Quốc đã chỉ trích việc triển khai vũ khí.) Có lẽ không có hành
động nào trong số này là nhằm mục đích xúc phạm trực tiếp. Nhưng chúng khiến
các nhà quan sát băn khoăn về diễn biến ở Nga theo hướng kịch bản Triều Tiên,
vì ngay cả khi không nằm trong chủ đích, các hành động trên đã cho thấy khả
năng Moscow có thể khiến Bắc Kinh bối rối mà không phải gánh chịu hậu quả.
Kể từ cuộc binh
biến của Prigozhin, Tập đã nhiều lần nhấn mạnh điều mà ông gọi là "lợi ích
cơ bản của hai nước và nhân dân hai nước," ngụ ý rằng quan hệ đặc biệt
giữa hai nước sẽ tồn tại lâu hơn chế độ lãnh đạo hiện tại ở Điện Kremlin. Trên
thực tế, một Trung Quốc chuyên chế sẽ không dám để mất Nga nếu điều đó đồng
nghĩa với việc xuất hiện một nước Nga thân Mỹ ở biên giới phía bắc, một kịch
bản song song, nhưng lại nguy hiểm hơn nhiều so với một bán đảo Triều Tiên
thống nhất thân Mỹ. Trước hết, việc tiếp cận dầu khí của Nga, một trong các
biện pháp bảo vệ của Trung Quốc nếu bị phong tỏa trên biển, sẽ gặp rủi ro.
Nhưng ngay cả khi Trung Quốc chỉ thu được rất ít lợi ích vật chất từ Nga, thì
việc ngăn chặn Nga quay sang phương Tây vẫn là ưu tiên an ninh quốc gia hàng
đầu. Một nước Nga nghiêng về phía Mỹ sẽ cho phép phương Tây tăng cường giám sát
Trung Quốc (tương tự như việc Tổng thống Mỹ Richard Nixon nối lại quan hệ với
Mao đã cho phép phương Tây giám sát Liên Xô từ Tân Cương). Tệ hơn nữa, Trung
Quốc sẽ đột ngột cần phải đưa một lực lượng quân sự đáng kể từ các nơi khác đến
bảo vệ biên giới phía bắc rộng lớn của mình. Vì vậy, Trung Quốc cũng phải sẵn
sàng chấp nhận hành vi kiểu Triều Tiên từ Moscow.
NGA RƠI VÀO HỖN
LOẠN
Chế độ của
Putin sử dụng mối đe dọa từ sự hỗn loạn và bất định để ngăn chặn những thách
thức và thay đổi nội bộ. Nhưng trong lúc họ gieo rắc hỗn loạn ở nước ngoài, từ
Đông Âu đến Trung Phi và Trung Đông, chính Nga cũng có thể trở thành nạn nhân
của sự hỗn loạn đó. Chế độ Putin ít nhiều có vẻ ổn định ngay cả dưới áp lực cực
độ của chiến tranh quy mô lớn, và những dự đoán về sự sụp đổ do các lệnh trừng
phạt sâu rộng của phương Tây đã không trở thành hiện thực. Tuy nhiên, các quốc
gia Nga do St. Petersburg và Moscow lần lượt cai quản đều đã tan rã trong hơn
100 năm qua, cả hai lần đều bất ngờ nhưng là tan rã hoàn toàn. Có nhiều nguyên
nhân giả định hợp lý cho sự tan rã trong tương lai gần: một cuộc nổi loạn trong
nước vượt khỏi tầm kiểm soát, một hoặc nhiều thảm họa tự nhiên vượt quá khả
năng quản lý của chính quyền, một tai nạn hoặc cố ý phá hoại các cơ sở hạt
nhân, cái chết vô tình hoặc không vô tình của nhà lãnh đạo. Những quốc gia như
Nga, với thể chế suy thoái và thiếu hụt tính chính danh, có thể dễ dàng bị tác
động bởi những đợt thử thách căng thẳng bất ngờ. Hỗn loạn có thể là cái giá
phải trả cho sự thất bại trong việc củng cố đất nước.
Tuy nhiên, bất
chấp tình trạng hỗn loạn, Nga sẽ không tan rã theo kiểu Liên Xô. Như nhà phân
tích chính cuối cùng của KGB từng than thở, Liên bang Xô-viết giống như một
thanh chocolate: 15 nước cộng hòa liên bang đã được phân định rõ ràng như những
mẩu nhỏ trên thanh chocolate, sẵn sàng bị bẻ gãy. Ngược lại, Liên bang Nga hiện
bao gồm các đơn vị lãnh thổ không dựa trên sắc tộc và không có tư cách bán quốc
gia (quasi-state). Các chủ thể tương đương cấp quốc gia hầu hết đều không có đa
số chính thức và thường nằm sâu trong lục địa, chẳng hạn như Tatarstan,
Bashkortostan, Mari El, và Yakutia. Nhưng Liên bang Nga có thể tan rã một phần
ở các khu vực biên giới đầy biến động như Bắc Caucasus. Kaliningrad – một tỉnh
nhỏ của Nga bị cô lập về mặt địa lý với phần còn lại của liên bang và nằm giữa
Lít-va và Ba Lan, cách đất Nga hơn 400 dặm – cũng có thể dễ bị tổn thương.
Nếu sự hỗn loạn
nhấn chìm Moscow, Trung Quốc có thể tái chiếm những vùng đất rộng lớn thuộc lưu
vực sông Amur mà dòng họ Romanov đã chiếm đoạt từ Nhà Thanh. Trong khi đó, Nhật
Bản có thể cưỡng bức thực thi các yêu sách của mình đối với Lãnh thổ phía Bắc,
mà người Nga gọi là Quần đảo Kuril và Đảo Sakhalin, cả hai nơi đều từng do
người Nhật cai trị, và là một phần của lục địa Viễn Đông Nga mà Nhật chiếm đóng
trong cuộc nội chiến ở Nga. Đến lượt mình, Phần Lan có thể tìm cách giành lại
vùng Karelia mà họ từng cai trị. Những hành động như vậy có thể khiến liên bang
sụp đổ hoàn toàn, nhưng cũng có thể phản tác dụng bằng cách kích động một cuộc
phản kháng quần chúng ở Nga.
Trong bối cảnh
hỗn loạn, ngay cả khi không bị mất lãnh thổ lớn, thì các băng nhóm tội phạm
truyền thống và tội phạm mạng vẫn có thể hoạt động mà không bị trừng phạt. Vũ
khí hạt nhân và vũ khí sinh học, cũng như các nhà khoa học phát triển chúng, có
thể bị phân tán. Về cơ bản, người ta đã tránh được cơn ác mộng theo sau sự sụp
đổ của Liên Xô, một phần vì nhiều nhà khoa học Liên Xô tin rằng một nước Nga
tốt đẹp hơn có thể xuất hiện. Nhưng nếu nước Nga tan rã, thì chẳng thể đoán
trước được người Nga sẽ cân nhắc giữa hy vọng và giận dữ như thế nào. Sự hỗn
loạn không nhất thiết dẫn đến kịch bản ngày tận thế. Nhưng nó có thể xảy ra. Và
ngày tận thế có thể chỉ bị trì hoãn, thay vì được ngăn chặn hoàn toàn.
(còn tiếp 1 phần)
No comments:
Post a Comment